Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của tòa án nhân dân các cấp - Nhìn từ một địa phương - pdf 13

Download Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của tòa án nhân dân các cấp - Nhìn từ một địa phương miễn phí



Hiện nay có một số quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ chưa cụ thể, chưa đầy đủ và chưa thống nhất nên các TAND địa phương khi thực hiện còn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Ví dụ: Khoản 2, Điều 31 và Khoản 2, Điều 60 của BLHS quy định việc Toà án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ hay người bị án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hay chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Việc giao bằng hình thức nào (giao con người cụ thể hay chỉ giao hồ sơ thi hành án) hiện chưa có hướng dẫn. Do vậy, các cơ quan, tổ chức, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi nhận được bản án (trích lục án) và quyết định thi hành án của Toà án bàn giao việc giám sát, giáo dục người bị kết án gặp khó khăn về hình thức quản lý, nội dung, biện pháp giám sát giáo dục người bị kết án. Có địa phương giao việc giám sát, giáo dục người bị kết án cho cơ quan tư pháp, nơi lại giao cho công an xã, phường, thị trấn. Thậm chí, có trường hợp tại thời điểm Toà án giao hồ sơ thì người bị kết án đã không có mặt ở địa phương, họ đi đâu, ở đâu, làm gì, địa phương không rõ, Toà án cũng không thể biết. Những trường hợp này việc giao và nhận để giám sát, giáo dục đối với người bị kết án vẫn còn là hình thức cần có sự quy định cụ thể của pháp luật.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37487/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của tòa án nhân dân các cấp - nhìn từ một địa phương
1. Thực tiễn xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Phú Thọ
Hoạt động giải quyết án hình sự của Tòa án nhân dân (TAND) là một giai đoạn trong toàn bộ quá trình giải quyết án hình sự. Khác với hoạt động giải quyết các loại án khác như án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính với đặc điểm là hoạt động độc lập của Tòa án từ khi nhận đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu làm phát sinh quan hệ tố tụng, Toà án là cơ quan chủ động trong các hoạt động tố tụng dựa trên chứng cứ các bên đương sự xuất trình hay có được do điều tra khi cần thiết để đưa ra quyết định trên cơ sở pháp luật, còn giải quyết án hình sự của Toà án chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp sau điều tra, truy tố. Giải quyết án hình sự của TAND bao gồm giai đoạn trước xét xử, trong xét xử và sau xét xử. Đặc trưng của việc giải quyết án của Toà án là xét xử, hoạt động cụ thể nhất của xét xử là phiên toà hình sự.
Áp dụng pháp luật (ADPL) trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt động thường xuyên của TAND trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định. ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án mang những đặc điểm chung của hoạt động ADPL, bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng. Quy trình ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng luật nội dung giải quyết vụ án hình sự phải là Bộ luật Hình sự (BLHS). Việc ADPL trong hoạt động của Toà án luôn là mối quan tâm của xã hội, đặc biệt là khi chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Thực hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, công tác giải quyết án hình sự của các TAND trong tỉnh Phú Thọ đã góp phần quan trọng vào việc phân hoá tội phạm với một chính sách nhất quán và rõ ràng: nghiêm trị đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố chống đối; khoan hồng đối với những đối tượng thật thà khai báo, ăn năn hối cải, người bị lôi kéo, dụ dỗ. Những bản án, quyết định của Toà án đúng pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá kết quả hoạt động của ngành.
Số vụ án hình sự sơ thẩm của toàn ngành TAND tỉnh Phú thọ đã thụ lý và giải quyết trong 5 năm (2004 - 2008) là 4093 vụ/6488 bị cáo. Trong đó: cấp tỉnh là 602 vụ/1248 bị cáo; cấp huyện là 3491 vụ/5240 bị cáo.
Tổng số vụ án phúc thẩm đã thụ lý giải quyết, xét xử trong 5 năm (2004 - 2008) là 325 vụ. Trong đó có 275 vụ người tham gia tố tụng kháng cáo; 32 vụ Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp kháng nghị; 18 vụ vừa có kháng nghị của VKSND cùng cấp, vừa có kháng cáo của người tham gia tố tụng.
Khảo sát thực tế số liệu thống kê từ năm 2004 đến năm 2008 về số vụ án hình sự đã giải quyết của ngành TAND tỉnh Phú Thọ cho thấy: hầu hết số vụ án hình sự của năm sau đều tăng so với năm trước (riêng năm 2007 số vụ và số bị cáo giảm so với năm 2006). Trong đó, bình quân số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người tăng 12,1%; nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu tăng 14,5%; nhóm tội về ma tuý tăng 32,6%; nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng tăng 3,6%; nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính tăng 6,3%; các nhóm tội khác tăng 8,2%.
Về cơ bản, công tác xét xử án hình sự phúc thẩm đạt kết quả tốt. Việc ADPL thực hiện các trình tự tố tụng từ giai đoạn nhận đơn kháng cáo và văn bản kháng nghị của VKSND đến khi thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. 100% các vụ án hình sự phúc thẩm được thụ lý và giải quyết trong thời hạn luật định. Tại phiên toà phúc thẩm, các nội dung kháng cáo, kháng nghị cơ bản đã được giải quyết triệt để, thoả đáng. Việc xét đơn kháng cáo quá hạn, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm đều được thực hiện đúng theo các trình tự, thủ tục Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Mặc dù việc chấp hành pháp luật trong hoạt động giải quyết án hình sự của ngành TAND tỉnh Phú Thọ cơ bản đạt kết quả tốt, tiến độ, chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án đạt và vượt chỉ tiêu của ngành. Tỷ lệ án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan trong nhiều năm được hạn chế ở mức thấp và theo xu hướng giảm dần. Song, thông qua việc nghiên cứu, xem xét một số vụ án bị hủy, sửa cho thấy thực tiễn xét xử vẫn tồn tại khuyết điểm.
Những sai sót thường mắc phải là: định tội danh không đúng; áp dụng không đúng các điều, khoản của BLHS; áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa phù hợp dẫn đến xử bị cáo quá nhẹ hay quá nặng, cho hưởng án treo, xử dưới khung hình phạt không đúng quy định của pháp luật; nhấn mạnh bồi thường thiệt hại mà chưa chú trọng đến tính chất và hậu quả của hành vi bị cáo đã gây ra cho xã hội; việc xử lý vật chứng, tịch thu tài sản hay tiền đã tham gia vào việc phạm tội hay do phạm tội mà có chưa đúng quy định của pháp luật; việc áp dụng Bộ luật Dân sự để xác định bồi thường thiệt hại, cấp dưỡng đối với người bị hại, hay đối với người bị hại có trách nhiệm nuôi dưỡng chưa chính xác hay giải quyết chưa triệt để; việc ra lệnh tạm giam đối với các bị cáo đang tạm giam sau khi nhận hồ sơ của VKSND còn có nhiều sai sót; việc thực hiện mẫu các văn bản tố tụng không đúng theo quy định của pháp luật và mẫu của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn; việc trả hồ sơ cho VKSND để điều tra bổ sung không có căn cứ để vụ án bị kéo dài; biên bản phiên toà không phản ánh đầy đủ nội dung diễn biến của phiên toà; phiên toà xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng quy định của pháp luật; cấp phúc thẩm sửa án của cấp sơ thẩm không có căn cứ hay căn cứ chưa phù hợp.
Thông qua biên bản phiên toà - là tài liệu phản ánh diễn biến của phiên toà - cho thấy, có những phiên toà mà việc xét hỏi và tranh luận theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/6/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chưa tốt: xét hỏi còn phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra bản án quyết định hình phạt không đúng quy định của pháp luật. Việc kiểm tra căn cước, lý lịch của bị cáo chưa được thể hiện đầy đủ trong biên bản phiên toà. Ví dụ: kiểm tra như thế nào, kiểm tra những vấn đề gì, kết quả kiểm tra tại chỗ có mâu thuẫn với hồ sơ không, trong biên bản phiên toà không thể hiện. Thông qua biên bản phiên toà còn cho thấy nội dung đối đáp giữa thay mặt VKSND với luật sư chưa phản ánh đầy đủ so với yêu cầu tranh tụng tại phiên toà, nhiều trường hợp thay mặt VKSND không đối đáp hết các quan điểm của luật sư tranh tụng.
Những hạn chế trong hoạt động giải quyết án hình sự thuộc bốn nhóm vi phạm sau: quyết định hình phạt quá nhẹ, áp dụng Điều 31, 60 ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status