Tiểu luận Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 - pdf 13

Download Tiểu luận Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 miễn phí



Về tên gọi, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước đây gọi là kinh tế quốc doanh, nhưng sau đó chúng ta đã nhận thức lại và gọi là kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể trước đây được gọi là thành phần kinh tế hợp tác xã (Hiến pháp 1980) nhưng sau cũng được đổi lại cách gọi cho chuẩn xác hơn.
Thứ hai, so sánh về vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Ở đây có xuất hiện nét tương đồng bởi ở cả hai bản Hiến pháp đều quy định thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Còn nền kinh tế tập thể(kinh tế hợp tác xã) vẫn được “ Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”(Điều 20 Hiến pháp năm 1992). Tuy nhiên, cũng trong bản Hiến pháp năm 1992 do có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế hơn, nên vị trí của kinh tế tập thể không còn có chỗ đứng vững chắc như trong thời kì trước. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát triển. Và trên thực tế, các thành phần này đang là những thành phần kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất, vị trí ngày càng được nâng cao trong toàn nền kinh tế đất nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường sôi động tại Việt Nam.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37425/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

sức mạnh của mình trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm làm cho khối lượng sản phẩm xã hội ngày càng tăng, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng cường khả năng hợp tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật của các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau…Như vậy Nhà nước ta từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả phát triển qua nhiều cách sản xuất. Chấp nhận cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời ta cũng chấp nhận những mặt tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại như : phân hoá giàu nghèo, bóc lột sưc lao động, làm hàng giả,buôn lậu... Nhưng đó không phải là sự chấp nhận một cách thụ động mà có sự định hướng xã hội chủ nghĩa với những cách khác nhau như pháp luật, kế hoạch, chính sách để nhằm hạn chế những mặt tiêu cực đó. Bên cạnh đó để đảm bảo lợi ích của nhân dân lao động lên hàng đầu phải không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở sử dụng hợp lý sức lao động, tài nguyên của đất nước cũng như áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau đó là:
_ Do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ là khác nhau.
Năm 1980, do nước ta mới giành được độc lập, các cơ sở kinh tế bị tàn phá, nền kinh tế ở trong tình trạng kém phát triển, nhân dân tuy đã được độc lập, tự do nhưng còn thiếu thốn trăm bề, ngay cả cơm không đủ ăn, những nhu cầu thiết yếu không được đáp ứng. Chính vì thế mục tiêu hàng đầu và cấp bách của Nhà nước đặt ra cho nền kinh tế lúc bây giờ là phải đáp ứng được căn bản những nhu cầu đó của nhân dân.
Năm 1999, sau thời kỳ khủng hoảng do chế độ tập trung bao cấp mang lại, Nhà nước ta đã nhận ra sai lầm và thực hiện cải cách vào năm 1986. Năm 1999 là giai đoạn nước ta đạt được những thành tựu bước đầu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt kinh tế, thể hiện sự đúng đắn của đường lối cải cách. Nhân dân ta đã được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc…Tất yếu nhu cầu văn hoá, vật chất của người dân sẽ ngày càng cao hơn, chính vì thế mục đích của chính sách kinh tế cũng phải có tính chất cao hơn. Từ chỗ làm cho nhân dân “ăn no mặc ấm” trở thành “ăn ngon, mặc đẹp”.
_ Do cơ chế quản lý kinh tế
Năm 1980, nước ta thực hiện chế độ tập trung quan liêu bao cấp, đóng kín cửa với thế giới chỉ nhận sự trợ cấp, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em như : Liên Xô, Trung Quốc…
Năm 1992, nước ta thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc mở cửa nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá là tất yếu.
_ Do tâm lý chính trị
Năm 1980, như đã nói ở trên nước ta vừa thực hiện thành công công cuộc giữ nước, đánh đuổi được đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho nước nhà. Trong không khí hân hoan đó xuất hiện những tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí từ những người lãnh đạo Nhà nước: nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Nhưng thực chất cơ sở hạ tầng của nước ta lúc bấy giờ đang rất yếu kém, nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ mà thôi. Chính tư tưởng kiến trúc thượng tầng phát triển có thể thúc đẩy hạ tầng phát triển theo nên Nhà nước ta đã đốt cháy giai đoạn, đề ra những phương hướng phát triển kinh tế trái với quy luật phát triển tự nhiên như quy định tại bản Hiến pháp năm 1980.
Năm 1992, với sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô cùng với các nước Đông Âu, nhận thấy rõ sai lầm của mình Nhà nước ta đã thực hiện cải cách và đạt được những thành công đáng kể bước đầu. Nhà nước ta nhận ra sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều cách và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế tư bản phát triển đến mức điển hình. Chính vì thế, phát triển kinh tế hàng hoá nhưng hạn chế những tiêu cực của nó bằng việc định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng sẽ vẫn đưa được nền kinh tế đi lên mà không đi chệch với con đường đã chọn – tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Đánh giá:
Hai bản Hiến pháp có sự khác nhau cơ bản về mục đích đặc biệt là phương hướng phát triển kinh tế. Sự chuyển hướng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt trong đời sống kinh tế của xã hội, đánh dấu sự đổi mới nhận thức với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ hoá trong đời sống kinh tế của xã hội, đem lại những thành tựu không thể phủ nhận trong sự phát triển kinh tế ở những năm gần đây. Đưa nền kinh tế nước ta trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nóng, dần xoá tên Việt Nam trong danh sách những nước cùng kiệt của thế giới.
Thứ hai: về thành phần kinh tế được xác định trong hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Khi so sánh về các thành phần kinh tế được nêu trong hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta dựa trên các tiêu chí sau:
Tên gọi và số lượng thành phần kinh tế.
Vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế được quy định tại mỗi bản Hiến pháp.
Mục đích sản xuất kinh doanh của mỗi thành phần kinh tế qua từng thời kì.
Vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác định trong hai bản Hiến pháp và qua đó rút ra tính phù hợp của hai bản Hiến pháp.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất ( mà hạt nhân là quan hệ sở hữu ) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế. So sánh về thành phần kinh tế, tức là ta đi so sánh về những hình thức tổ chức kinh tế, những cách quản lí của Nhà nước phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Và chính từ sự so sánh này, chúng ta mới nhận thức rõ hơn sự phù hợp hay không của chính sách phát triển các thành phần kinh tế ở trong hai bản Hiến pháp.
Trước hết, ta đi so sánh về tên gọi và số lượng các thành phần kinh tế. Tại bản Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta chỉ chủ trương “thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” ( Điều 18, Hiến pháp Việt Nam 1980). Nhưng cho đến Hiến pháp năm 1992, Nhà nước chủ trương phát triển một nền “kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”(Điều 15). Lần đầ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status