Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này - pdf 13

Download Tiểu luận Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này miễn phí



- Để những quy định về quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế, Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng như hoàn thiện chế định quyền khởi kiện hiện hành. Trên cơ sở các quy định pháp luật, chúng ta nên quan tâm hơn nữa đến vấn đề phổ biến pháp luật ở cơ sở. Cụ thể là công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn có năng lực cũng như trình độ để hướng dẫn và giải đáp những thắc mắc của người dân liên quan đến vấn đề khởi kiện, giúp cho họ thực hiện tốt quyền khởi kiện của mình, khởi kiện đúng bị đơn theo quy định của pháp luật. Tiếp theo là công tác đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp trong bộ phận tiếp nhận hồ sơ ở Tòa án. Đây là một trong những khâu khá quan trọng trong quá trình thực hiện quyền khởi kiện của người dân. Chúng ta nên chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ tiếp nhận hồ sơ có đầy đủ năng lực, phẩm chất và hơn nữa là tâm huyết với nghề nghiệp. Có như vậy, quyền khởi kiện của người dân và vấn đề xác định tư cách đương sự mới được thực hiện triệt để ngay từ khâu đầu tiên là thụ lý vụ án.

Đề 7 : Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Bài làm
Theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước bảo vệ tất cả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mỗi khi các quyền và lợi ích xâm hại, các công dân đều có quyền yêu cầu nhà nước bảo vệ. Một trong những cách yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là quyền khởi kiện. Đặc trưng của cách khởi kiện là trao cho đương sự quyền tự do hành động cùng với quyền tự định đoạt của các chủ thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Với hành vi khởi kiện kịp thời như vậy, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi phục lại mối quan hệ thiện chí, cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời sống dân sự.
1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hay các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Điều 161 BLTTDS không chỉ ghi nhận quyền khởi kiện dân sự mà còn quy định các điều kiện về thủ tục khởi kiện, yêu cầu khởi kiện.
a. Về chủ thể khởi kiện.
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham giam vào quan hệ pháp luật TTDS. Các chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan hay tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Điều 161 BLTTDS đã quy định:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hay thông qua người thay mặt hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
 Cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi TTDS đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm.
 Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi cần được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải do người thay mặt thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án.
Pháp luật cũng đòi hỏi cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 161BLTTDS). Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, nó không cho phép người không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để rồi lại xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Cá nhân khi đã có năng lực chủ thể đầy đủ thì có thể tự mình khởi kiện hay làm giấy ủy quyền cho một người khác có năng lực hành vi thay mặt mình khởi kiện, trừ việc ly hôn.
 Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.
Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hay tranh chấp. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác được khởi kiện những vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định tại các điều 55, 56 LHN&GĐ, BLTTDS còn quy định các cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách (Điều 162).
b. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án
Tòa án chỉ thụ lý VADS đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Theo BLTTDS thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án được quy định tại các Điều 25,27,29,33,34,35,36 bao gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các bộ phận trong một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để vụ án được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xét xử. Khi xác định tranh chấp dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không, trước hết phải xác định tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền chung về dân sự của Tòa hay ko? Nội dung tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết phải được quy định tại các điều 25,27,29 BLTTDS; phải đúng thẩm quyền theo lãnh thổ quy định tại các điều 33 và 34 BLTTDS và đúng thẩm quyền theo lãnh thổ quy định tại các điều 35, 36 BLTTDS. Trong trường hợp người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án theo Điều 36 BLTTDS thì yêu cầu đương sự cam kết không khởi kiện tại các tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết thì phải kiểm tra tính hợp pháp của thỏa thuận.
Những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định khác đầy đủ và chi tiết, khi nhận đơn khởi kiện Tòa án căn cứ vào yêu cầu của đương sự mà đối chiếu nội dung loại việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình hay ko? Khi xác định thẩm quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại hay lao động để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy định. Việc xác định này có ý nghĩa rất lớn khi xác định các quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng. Chẳng hạn nếu đó là tranh chấp về hôn nhân và gia đinh sẽ áp dụng các quy định trong LHNHĐ, BLDS... Nếu là tranh chấp lao động sẽ áp dụng BLLĐ, Luật BHXH...
Các quy định về thẩm quyền bước đầu đã phát huy tác dụng trong việc xác định thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án. Tuy nhiên trong thực tiễn thi hành vẫn có nhiều khó khăn nhầm lẫn về mục đích lợi nhuận để xác định đó là hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hay vẫn có trường hợp tranh chấp về thẩm quyền giải quyết.
c. Điều kiện về thời hiệu



34OovqXf8Q11T3Q
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status