Tiểu luận Quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển - pdf 13

Download Tiểu luận Quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển miễn phí



Mỗi quốc gia ven biển đều có quyền quy định các vùng biển nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là quyền được hiện bằng hành vi pháp lý đơn phương của từng quốc gia khi những vùng biển này tồn tại độc lập không chồng lấn với vùng biển các quốc gia khác. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có vùng biển tiếp giáp hay đối diện nhau thì khi các quốc gia này thực hiện yêu sách về các vùng biển danh nghĩa pháp lý của mình có thể dẫn đến thực tiễn là có sự chồng lần về các vùng này.
Căn cứ theo Điều 83 Công ước luật biển 1982: “Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng ”
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38118/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

LỜI NÓI ĐẦU
Thềm lục địa có một vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia ven biển.Nơi đây luôn xảy ra các tranh chấp về chế độ pháp lý của mỗi quốc gia.Nhằm tránh xảy ra các tranh chấp này và giữ gìn trật tự hòa bình an ninh trên biển mà luật biển quốc tế phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định cũng như quy chế pháp lý của thềm lục địa .Tuy nhiên luật biển quốc tế vẫn phải thể hiện rõ nguyên tắc của mình, đó là nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của mỗi quốc gia.
Trong phạm vi bài tập em xin đưa ra các quy định xuất hiện đầu tiên được nêu trong Công ước Giơnevo năm 1958 đến những quy định được đánh giá là rõ ràng và công bằng nhất hiện nay về phương pháp xác định thềm lục địa của quốc gia trong Công ước về biển của Liên hiệp quốc 1982 để chứng minh rằng : quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển.
I.Quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển.
1.Cách xác định thềm lục địa trong Công ước Giơ-ne-vơ năm 1958.
Thực tiễn khai thác tài nguyên ở đáy biển đã dẫn đến việc hình thành và thừa nhận chế định thềm trong luật biển quốc tế.Khái niệm về thềm lục địa đầu tiên trong luật pháp quốc gia và được thừa nhận rộng rãi xuất hiện ở Công ước Giơnevo năm 1958.Công ước đã quy định thềm lục địa là “ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của phần ngập nước tiếp giáp với bờ biển, nhưng nằm ở ngoài lãnh hải, đến độ sâu 200 mét hay sâu hơn nữa, tới một độ sâu có thể cho phép khai thác các tài nguyên thiên nhiên ở đó”.Sau khi khái niệm về thềm lục địa này được ra đời, có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau qua góc nhìn của khái niệm này về thềm lục địa.Qua đây chúng ta có thể thấy trong khái niệm về thềm lục địa có một số nhược điểm sau:
Định nghĩa pháp lý về thềm lục địa được quy định trong Công ước 1958 đã lấy những yếu tố địa lý chứ không lấy những yếu tố địa chất làm cơ sở.Điều này dẫn đến việc trong định nghĩa không có đủ những tiêu chuẩn làm cơ sở để xác định chế độ của thềm.Trong khái niệm không xác định rõ dốc và khối nhô lục địa có thuộc thành phần của thềm lục địa hay không, thềm lục địa bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu.Đây là một trong những vấn đề mà Công ước 1958 chưa điều chỉnh và cũng là một trong số những nhược điểm của khái niệm này ( dốc và khối nhô lục địa được thể hiện ở hình 1 Phụ lục).
Theo quy định của Công ước thì thềm lục địa là một phần của đáy biển, ranh giới tiếp giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải.Có nghĩa là ranh giới phía trong của thềm lục địa trùng với ranh giới phía ngoài của lãnh hải và tùy thuộc vào chiều rộng của lãnh hải.Trong khi Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp không có những điều khoản quy định chiều rộng tối đa của lãnh hải, các quốc gia vì vậy cũng quy định rất khác nhau và cũng tùy thuộc vào lợi ích của quốc gia mình.Do vậy, ranh giới ngoài của thềm lục địa không được xác định rõ và ranh giới trong của thềm cũng được coi là chưa xác định.
Tiếp theo, Công ước 1958 đưa ra tiêu chuẩn về “độ sâu” 200 mét để xác định chiều rộng của thềm.Thềm lục địa được cấu thành bởi 3 thành phần : thềm lục địa với độ dốc thoai thoải 0,07 – 1°, dốc lục địa thay đổi dốc đột ngột trung bình khoảng 4-5° và bờ lục địa quay lại độ dốc thoải ban đầu khoảng 0,5°.Rõ ràng nhận thấy rằng đối với những quốc gia có thềm lục địa rộng và nông sẽ có lợi rất nhiều khi áp dụng quy định này, và ngược lại với những quốc gia có thềm lục địa sâu thì việc áp dụng quy định của Công ước gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của các quốc gia ven biển này.Vì vậy, những quy định của Công ước về “ độ sâu” cũng gây ra sự không công bằng cho các quốc gia ven biển.
Còn về yếu tố “khả năng khai thác” đã thể hiện sự bất hợp lý hơn.Những quốc gia có lợi thế về kĩ thuật có thể lợi dụng yếu tố này làm thay đổi thềm lục địa của chính quốc gia mình, hay nói cách khác yếu tố này không được xây dựng trên cơ sở khách quan mà phụ thuộc vào lợi thế của quốc gia ven biển trong việc khai thác tài nguyên của thềm.Hơn nữa trong cuộc cách mạng khoa học đang ngày càng đạt được những thành tựu mới thì ranh giới phía ngoài lục địa sẽ thay đổi hàng ngày theo những thành tựu khoa học- kĩ thuật và chiều rộng của thềm cũng tăng lên do khả năng kĩ thuật cho phép các quốc gia lấn tới những vùng sâu hơn ở đại dương.Như vậy không bao lâu nữa toàn bộ đáy biển dưới đại dương sẽ được chia cho các quốc gia ven biển.Có thể thấy rằng quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các nước công nghiệp phát triển có khả năng kỹ thuật và tài chính tha hồ khai thác tài nguyên thiên nhiên.Do vậy tiêu chuẩn này trong quy định của Công ước Giơnevo cho thấy tính không rõ ràng, không xác định, không chuẩn xác và rất tùy tiện của quy định.
Tất cả những điều nói trên chứng tỏ rằng vấn đề ranh giới, đặc biệt là ranh giới phía ngoài thềm lục địa chưa được Công ước Giơnevo năm 1958 điều chỉnh.Tình trạng trên đã dẫn đến chỗ là ngay sau khi được ký kết, Công ước Giơnevo đã gặp phải sự chỉ trích kịch liệt và yêu cầu được đặt ra là phải xây dựng một điều chỉnh pháp lý quốc tế đối với vấn đề xung quanh chế độ pháp lý của thềm lục địa.
2.Ghi nhận của Công ước 1982 về cách xác định thềm lục địa thể hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia.
Về bản chất, thềm lục địa phải được thể hiện rõ cả về phương diện tự nhiên và phương diện pháp lý. Về tự nhiên, đó là phần lãnh thổ đất liền mở rộng ra hướng biển, tại đó danh nghĩa chủ quyền tạo cho quốc gia các đặc quyền có tính chất đương nhiên. Về pháp lý, sự mở rộng lãnh thổ này không có ý nghĩa thiết lập vùng lãnh thổ mới của quốc gia, vì theo Luật biển quốc tế, biên giới biển của quốc gia được giới hạn bởi đường ranh giới phía ngoài lãnh hải và đó là sự bắt đầu của thềm lục địa pháp lý có cơ sở từ lãnh thổ đất liền.Công ước luật biển năm 1982 ra đời đã đưa ra những quy định rõ ràng và công bằng về phương pháp xác định thềm lục địa của quốc gia.
Căn cứ khoản 1 Điều 76 Công ước luật biển năm 1982: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hay đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.” .
Công ước 1982 quy định kết hợp hài hòa tiêu hai tiêu chí cơ bản để xác đ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status