Tiểu luận Lịch sử lập hiến Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Lịch sử lập hiến Việt Nam miễn phí



Hiến pháp 1980 bao gồm: Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm để dựng nước và giữ nước. Tiếp đó, nêu tóm tắt những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu xác định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Về tính chất, Hiến pháp 1980 là hiến pháp XHCN được thực hiện trên phạm vi cả nước. Tính chất này thể hiện rõ nét tại các điều trong 12 chương của Hiến pháp:
Chương I: chế độ chính trị (gồm 14 Điều: từ Điều 1 đến Điều 14): Hiến pháp khẳng định bản chất của Nhà ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, khẳng định các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lần đầu tiên Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội không những trong lời nói đầu mà còn có 1 điều riêng (điều 4) qui định. Khẳng định tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, các cơ quan Nhà nước đều tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
Chương II: chế độ kinh tế (22 điều: từ Đ15 – Đ36). Qui định chỉ có 2 thành phần kinh tế với 2 hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể. Nhà nước độc quyền về ngoại thương và qui định quốc cầu hóa các cơ sở kinh tế tư bản & tư nhân (Đ18). Qui định nguyên tắc quản lý kinh tế thông qua công cụ là kế hoạch tập trung và bao cấp (Đ33).
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37937/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Qua đó càng thấy rõ quan niệm, cách nhìn, sự đánh giá vai trò tích cực, quan trọng như thế nào của Hiến pháp đối với cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân nhằm khẳng định tính chất chính nghĩa, hợp pháp, hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ của chính quyền mới.
Nội dung của Hiến pháp 1946
Xét theo khuôn khổ, Hiến pháp năm 1946 không dài, chỉ gồm “Lời nói đầu”, 7 chương với 70 Điều ngắn gọn, nhưng xét theo nội dung, tính chất của các quy định của nó thì có thể coi là một văn bản pháp luật hoàn chỉnh ở tầm đạo luật cơ bản của một Nhà nước để làm cơ sở, làm khung hiến định, đáp ứng nhu cầu không chỉ trước mắt mà cả lâu dài của một đất nước vừa thoát khỏi chế độ thực dân, phong kiến đang bước vào cộng đồng các quốc gia độc lâp, nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự dân chủ, khẳng định quyền dân tộc độc lập, quốc gia thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyết tâm của toàn dân tộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, các quyền tự do dân chủ của công dân.
“Lời nói đầu” khẳng định các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, đó là:
Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Cùng với các nguyên tắc lập hiến, “Lời nói đầu” khẳng định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Về tính chất, Hiến pháp 1946 thể hiện rõ nét tính dân chủ nhân dân nhưng mang màu sắc của Hiến pháp tư sản, nhất là trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tính dân chủ nhân dân trong Hiến pháp năm 1946 thể hiện trên các mặt:
Về hình thức chính thể và nguồn gốc quyền lực, đây là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Hiến pháp 1946 ra đời khi nhiệm vụ giai cấp và nhiệm vụ dân tộc chi phối, gắn bó mật thiết với nhau, khi nhiệm vụ “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn” nổi lên hàng đầu, khi “đoàn kết không phân biệt giống nòi, giàu nghèo…”, trở thành nguyên tắc lập hiến thì các quy định của Hiến pháp 1946 chứng tỏ là đã tìm ra cách thể hiện một cách phù hợp: “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1). “Lời nói đầu” của Hiến pháp này cũng khẳng định: chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa là “chính thể dân chủ”. Đây là bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam, là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ.
Về quyền lực nhân dân - đầy đủ trên nhiều lĩnh vực. Với việc lấy “đảm bảo các quyền tự do dân chủ” làm một trong ba nguyên tắc chỉ đạo, Hiến pháp 1946 thực sự là một bản Hiến pháp đặc sắc trong các Hiến pháp của các nước, của các dân tộc xưa nay nói chung. Hiến pháp 1946 của Việt Nam đã dành hẳn một chương và chương đó đặt ở vị trí trang trọng – chương II, tiếp chương I “chính thể” để quy định quyền và nghĩa vụ của công dân và cũng không hoàn tòan ngẫu nhiên, Hiến pháp 1946 để dành cho chương này 13 điều trong số 70 điều của Hiến pháp để quy định các quyền tự do dân chủ của công dân, thể hiện bản chất thật sự dân chủ và là một nền dân chủ rộng rãi của chế độ mới. Hiến pháp này ghi: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); “tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều 7)…Có thể thấy rằng, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhân dân được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ; lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận; và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, Hiến pháp 1946 xác định đó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo đó, Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thứ trưởng. Ở đó, Chủ tịch nước không chỉ thực hiện chức danh nguyên thủ quốc gia thay mặt cho nước mà còn là người đứng đầu cơ quan hành pháp.
Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 còn mang màu sắc của Hiến pháp tư sản, thể hiện rõ nhất là trong lĩnh vực tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước: tập trung nhưng thiếu dân chủ. Chính phủ có những quyền rất lớn như quyền bổ nhiệm và bãi miễn đối với Thẩm phán các Tòa án và Chủ tịch nước cũng có những quyền rất lớn tương tự như quyền phủ quyết của Tổng thống các nước Tư sản , tuy nhiên vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước chưa được đề cao.
Ý nghĩa của hiến pháp năm 1946
Mặc dù còn mang màu sắc của Hiến pháp tư sản song với tính cách là bản Hiến pháp đầu nguồn của nền lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 đã để lại cho nền lập hiến Việt Nam một điểm sáng chói, một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kì một bản Hiến pháp nào trên thế giới. Nó là bản hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện.
Hiến pháp năm 1946 đánh dấu thắng lợi lịch sử đã giành được trong Cách mạng Tháng Tám, xác lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phát triển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, ghi nhận thành quả đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc ta. Mục tiêu chiến lược của Hiến pháp là hoàn thành độc lập dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”.Đây là sự kiện đánh dấu sự "đổi đời"của đất nước và của nhân dân ta.
- Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy định mang tính tiến bộ, tính nhân văn sâu sắc.
- Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của 1 "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự sáng tạo ra 1 hình thức chính thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế định Chủ tịch nước phù hợp với điều kiện chính trị-xã hội rất phức tạp ở nước ta giai đọan này.Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được Hiến pháp 1946 quy định đến nay vẫn còn nguyên giá trị
Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp 1959, Hiến pháp thứ hai theo trình tự thời gian trong lịch sử lập hiến nước ta. Ra đời trong những
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status