Nhân tố tác động và nội dung điều chỉnh trong chính sách cạnh tranh của Liên minh châu Âu - pdf 13

Download Nhân tố tác động và nội dung điều chỉnh trong chính sách cạnh tranh của Liên minh châu Âu miễn phí



Dưới tác động của tự do hóa, chính sách cạnh tranh của EU đặc biệt chú ý đến sự thay đổi trong các ngành như viễn thông, năng lượng, giao thông vận tải Đó là vì những ngành này ít nhiều vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Một số quốc gia đã tiến hành tư nhân hóa các ngành này nhưng trên thực tế các doanh nghiệp nhà nước sau khi được tư nhân hóa vẫn có vị trí thống lĩnh thị trường, bởi vậy chính sách cạnh tranh cần tiếp tục có những tác động mạnh mẽ hơn đến khu vực này. Để thực hiện mục tiêu này, chính sách cạnh tranh của EU phải tính đến “độc quyền tự nhiên”. Độc quyền tự nhiên được hiểu là hiện tượng xảy ra trên thị trường khi toàn bộ sản phẩm của thị trường đó nếu được cung cấp bởi một doanh nghiệp thì sẽ ở mức giá thấp hơn so với việc có hai hay nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp sản phẩm đó. Điều này là do tính chất của sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được cung cấp quyết định. Nói cách khác, độc quyền tự nhiên là mô hình tối ưu trong những lĩnh vực nhất định, khi mà chỉ cần một nhà sản xuất là đủ khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Vì thế, nếu cho phép các nhà cung cấp khác tham gia vào thị trường sẽ dẫn tới “sự canh tranh lãng phí”. Ví dụ như trong ngành sản xuất và kinh doanh điện, việc có nhiều nhà sản xuất điện cạnh tranh trên thị trường sẽ làm giảm giá bán điện và nâng cao chất lượng điện được cung cấp. Tuy thế, trong một quốc gia thì không nhất thiết mỗi nhà sản xuất điện phải xây dựng một hệ thống dây truyền tải riêng biệt. Đó là điều không thể làm được đối với tất cả các doanh nghiệp, vì nó đòi hỏi chi phí rất lớn cũng như gây ra sự lãng phí không cần thiết.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38325/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

nh tại Hiệp định Rome năm 1957 - Hiệp định thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu, thể hiện trên ba lĩnh vực sau:
- Chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận phản cạnh tranh (cartel)[1];
- Chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp;
- Chính sách kiểm soát trợ cấp nhà nước.
Theo chính sách này, các quy tắc được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường thống nhất mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của chúng. Các quốc gia thành viên có cơ quan thực thi luật cạnh tranh của họ, còn Ủy ban Châu Âu (Ủy ban) chịu trách nhiệm điều tra các vi phạm chính sách. Ủy ban có quyền lực đặc biệt bao gồm ấn định mức tiền phạt, buộc thay đổi các thỏa thuận sáp nhập và ngăn chặn hoạt động trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định này có thể bị kháng cáo ở Tòa án châu Âu.
Chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận phản cạnh tranh (cartel)
Chính sách chống độc quyền được quy định tại Điều 82 của Hiệp định Rome, theo đó, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là hành vi: “bị coi là đi ngược với thị trường chung và bị cấm, trong chừng mực mà thương mại giữa các nước thành viên có khả năng bị ảnh hưởng, hành vi của một hay nhiều doanh nghiệp khai thác một cách lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường chung hay trên một phần của thị trường chung”. Chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp, bởi suy cho cùng, nhiều doanh nghiệp có được vị trí này là do kết quả của quá trình kinh doanh trên thương trường. Chính sách cạnh tranh của EU thể hiện rất rõ quan điểm ngăn cản việc lạm dụng vị trí thống lĩnh như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ, hay các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh… Một ví dụ điển hình trong vấn đề này là trường hợp của công ty Microsoft: Với tư cách là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực sản xuất phần mềm máy tính, Microsoft đã buộc khách hàng chỉ có thể mua được máy tính nếu chấp nhận mua kèm hệ điều hành Windows của mình. Ủy ban đã đệ trình các biện pháp để ngăn cản hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh này như phạt tiền, buộc Microsoft phải li-xăng công nghệ, hay buộc Microsoft phải chia nhỏ doanh nghiệp thông qua việc bán một lượng tài sản nhất định.
Bên cạnh chính sách chống độc quyền là chính sách chống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, được quy định tại Điều 81 của Hiệp định Rome, theo đó “nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết doanh nghiệp và mọi dạng thỏa thuận có khả năng ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hay hậu quả ngăn cản, hạn chế và làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung”. Quy định này áp dụng đối với các thỏa thuận theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và các thỏa thuận theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chuỗi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Liên quan đến lĩnh vực này, Ủy ban có quyền rất lớn trong việc tiến hành điều tra, bao gồm vào trụ sở của các doanh nghiệp mà không cần báo trước để xem xét các tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, có quyền truy cứu bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật và áp dụng mức phạt tiền lên đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp. Một ví dụ điển hình chứng minh cho quyền lực rất lớn này của Ủy ban, đó là vào tháng 11/2001, Ủy ban đã áp dụng mức phạt tiền lên đến 855 triệu euro đối với các bên trong một cartel sản xuất vitamin, đó là hai hãng dược phẩm Roche và BASF. Trước đó, mức phạt cao nhất mà EU đã áp dụng là 272 triệu euro đối với cartel tàu biển vào năm 1998. Mức phạt tiền cao hay thấp chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm, quy mô và thời gian tồn tại của cartel cũng như thái độ hợp tác của các doanh nghiệp đối với Ủy ban.
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, chính sách cạnh tranh của EU không cho rằng mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều là vi phạm pháp luật. Trong trường hợp, thỏa thuận giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích lớn hơn những hạn chế cạnh tranh thì Ủy ban có quyền cho phép thực hiện những thỏa thuận như vậy, nhằm đảm bảo tính hợp tình và hợp lý của các quy tắc cạnh tranh. Trường hợp này được gọi là “miễn trừ ngăn cản”, tức là Ủy ban đưa ra những miễn trừ thay vì ngăn cản thỏa thuận giữa các doanh nghiệp.
Chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp
Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể đưa đến sự ra đời một doanh nghiệp mới có vị trí thống lĩnh. Điều này có thể sẽ làm sai lệch thị trường và không đảm bảo cạnh tranh. Chính vì vậy, hành vi sáp nhập hay hợp nhất doanh nghiệp cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chính sách cạnh tranh của EU. Tuy nhiên, cần lưu ý là hoạt động sáp nhập chỉ bị ngăn cản nếu nó tạo ra hay nâng cao vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến hiệu quả cạnh tranh. Năm 1990, chính sách cạnh tranh EU đã có bổ sung đối với vấn đề sáp nhập. Theo đó, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 5 tỷ euro chỉ được sáp nhập khi có sự phê chuẩn đồng ý của Ủy ban. Thủ tục sáp nhập được diễn ra theo hai bước. Giai đoạn kiểm tra sơ bộ diễn ra trong vòng một tháng. Đây là giai đoạn các chuyên gia xem xét và đưa ra quyết định việc sáp nhập có tác động đến cạnh tranh hay không. Kết quả của giai đoạn này là (i) doanh nghiệp bị từ chối cho phép sáp nhập, hoăc (ii) được cho phép thực hiện sáp nhập ngay, hay (iii) Ủy ban phải mở thủ tục xem xét hoạt động sáp nhập.
Thực tế cho thấy, chỉ có khoảng 10% vụ việc đệ trình lên Ủy ban phải mở thủ tục xem xét sáp nhập. Giai đoạn này kéo dài tối đa 4 tháng, dựa trên các báo cáo chính thức của các bên có liên quan và có thể tham vấn Ủy ban tư vấn bao gồm thay mặt cơ quan quản lý cạnh tranh của các quốc gia thành viên. Sau đó, các chuyên gia sẽ xem xét khả năng tác động của việc sáp nhập đối với thị trường và đưa ra quyết định cuối cùng. Đó có thể là quyết định cho phép hay không cho phép tập trung kinh tế, hay cũng có thể là trả lại hồ sơ do vụ việc không thuộc thẩm quyền của Ủy ban châu Âu.
Để đảm bảo cho hoạt động sáp nhập của các doanh nghiệp được xử lý một cách thấu đáo, tháng 12/2001, Ủy ban đã đề xuất một quy tắc bổ sung, được gọi là quy tắc “dừng đồng hồ” theo đó, các bên trong vụ sáp nhập có thể xin tạm dừng thủ tục xem xét sáp nhập để có thêm thời gian đàm phán về các khả năng thực hiện nhằm thuyết phục Ủy ban trong việc đưa ra quyết định phê chuẩn.
Chính sách kiểm soát trợ cấp nhà nước
Vấn đề kiểm soát trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp được quy định tại Điều 87 và 88 của Hiệp định Rome, cụ thể là “tất cả các biện pháp trợ cấp do các quốc gia thành viên thực hiện hay bằng cách sử dụng các nguồn lực của quốc gia đó dưới bất kỳ hình thức nào, trong chừng mực mà các biện pháp trợ cấp đó liên quan đến các giao dịch giữa các quốc gia thành viên, mà làm sai lệch hay đe d
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status