Tiểu luận Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng - pdf 13

Download Tiểu luận Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng miễn phí



MỤC LỤC
 
trang
A. Lời mở đầu 1
B. Nội dung 1
I. Khái niệm hôn nhân và gia đình 1
1. Khái niệm hôn nhân 1
2. Khái niệm gia đình 2
II. quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về hôn nhân và gia đình 2
III. Lịch sử phát triển của chế độ hôn nhân một vợ một chồng 5
1. Chế độ hôn nhân thời kỳ nguyên thủy 5
2. Chế độ hôn nhân thời kỳ phong kiến Việt Nam 6
3. Chế độ hôn nhân ở Nam kỳ thời Việt Nam cộng hòa 6
4. Chế độ hôn nhân sau cách mạng tháng Tám 1945 7
IV. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chòng ở nước ta 11
1. Thực tế vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng 11
2. Một số nguyên nhân vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vọ một chồng 12
C. Kết luận 15
Danh mục tài liệu tham khảo.
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38660/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

lẽ hơn, và sự ngoại tình của vợ cũng ít phổ biến hơn”.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng trong giai đoạn này còn thể hiện công khai tính gia trưởng của người chồng, người cha trong gia đình và đồng thời còn thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ, chồng, con cái, giữa con cái với nhau, coi rẻ quyền lợi của con. Hôn nhân tư sản được xác lập trên mối quan hệ tài sản, địa vị, sự thiệt hơn trong quan hệ kinh tế “ trong hai trường hợp đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên và vì vậy hôn nhân luôn luôn là hôn nhân tính toán”. Về hậu quả của hôn nhaaqn tư sản Angghen viết: Thông thường biến thành sự mại dâm ti tiện nhất-có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường là về phía người vợ; Nếu ở đây đàn bà có khác với gái thông thường thì chỉ vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán lao động của mình, mà bán mĩa mãi như một nô lệ.
Từ sự phân tích những hạn chế cơ bản của chế độ HN&GĐ tư sản, Mác-Angghen đã chỉ ra một hình thức hôn nhân một vợ một chồng đích thực, tiến bộ đã nảy sinh mà chúng ta cần thực hiện và củng cố. Đó là hôn nhân “ chỉ có trong các giai cấp bị áp bức, bởi vậy hiện nay chỉ có trong giai cấp vô sản thì tình yêu nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc và trong thực tế đang là một quy tắc trong các mối quan hệ đối với phụ nữ mặc dù quan hệ đó được chính thức thừa nhận hay không” và “hôn nhân của người vô sản là hôn nhân một vợ một chồng theo nghĩa ngữ nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải theo tính tịch sử của danh từ đó ”.
Cuộc cách mạng xã hội là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất, trong cuộc cách mạng đó chắc chắn là các cơ sở kinh tế trước đây của chế độ một vợ một chồng, cũng như cái bổ sung cho nó là tệ ngoại tình và nạn mại dâm sẽ bị tiêu diệt. Vậy chế đọ một vợ một chồng tồn tại hay không khi mà những nguyên nhân kinh tế sinh ra nó đã không còn. Angghen khẳng định: chế đọ đó nhẳng những sẽ không mất đi mà trái lại chỉ có bắt đầu từ lúc đó nó mới được hoàn thiện trọn vẹn. Thật vậy, nếu các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê giai cấp vô sản cũng biến mất, và đồng thời cũng không còn tình trạng nhiều phụ nữ phải bán mình vì đồng tiền, vì cuộc sống quá khó khăn nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại trở thành hiện thực, ngay cả đối với đàn ông nữa. Lúc này hôn nhân mới có điều kiện thể hiện đúng bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng đích thực, phát sinh và tồn tại trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, bình đẳng và nhằm xây dựng gia đình để cùng nhau thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất.
Những luận điểm của Mác và Angghen đã được Lênin tiếp tục phát triển trên cơ sở thừa nhận quyền tự do hôn nhân, ông khẳng định về quyền tự do li hôn: “vấn đề li hôn cho ta thấy rõ rằng một người dân chủ, một người xã hội chủ nghĩa không thể nào, ngay từ bây giờ không đòi hỏi quyền li hôn hoàn toàn tự do, vì thiếu tự do ấy thì giới bị áp bức, giới phụ nữ phải gánh thêm một nối nhục nữa”. Lênin cũng đặc biệt nhấn mạnh về bình đẳng giữa nam và nữ, coi giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ của người cộng sản và “chỉ khi nào có sự cải tạo toàn khối nền kinh tế trở thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa quy mô lớn thì mới bắt đầu thật sự giải phóng phụ nữ và mới có chủ nghĩa cộng sản thật sự được”.
Những tư tưởng cơ bản trên đấy của nhủ nghĩa Mác-Lênin chính là cơ sở lý luận để hình thành những nguyên lý chỉ đạo cho việc thực hiện những quan hẹ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dân chủ, tiến bộ.
3_ Lịch sử phát triển của chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Chế độ hôn nhân thời kỳ nguyên thủy.
Trước chủ nghĩa Mác-lênin, có quan điểm cho rằng hình thái cổ xưa nhất của cuộc sống xã hội loài người là gia đình, sau gia đình là bộ lạc, rồi mới đến Nhà nước. Angghen là người đầu tiên chứng minh rằng nhannj định trên là hoàn toàn sai lầm. Qua tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” ông đã phân tích nguồn gốc hôn nhân và gia đình từ giai đoạn thấp nhất của xã hội loài người (khi chưa có sự phân công lao động), đặc điểm của giai đoạn này là sự quan hệ tính giao bừa bãi, không có hôn nhân, không có gia đình và bộ lạc như là một đơn vị duy nhất không tách rời của xã hội nguyên thủy. Trong bước tiếp theo của sự phát triển lịch sử hình thái hôn nhân và gia đình không như chúng ta thấy bây giờ mà đó là chế độ quần hôn. Trong chế độ nguyên thủy hôn nhân và gia đinh đã trải qua các hình thái hôn nhân và gia đình khác nhau: gia đình huyết tộc, gia đình Punalua, gia đình đối ngẫu, gia đình cá thể. Đến hình thái gia đình đối ngẫu thì chế độ quần hôn vẫn tồn tại cho nên không thể có chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Như vậy hôn nhân đối ngẫu không phải là hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân một vợ một chồng là hôn nhân đặc trưng cho một chế độ xã hội khác.
Khi sự phân hóa lao động đã ở mức cao và của cải trong xã hội đã có dư thừa, khi đó mới bắt đầu xuất hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, bởi vì trong giai đoạn này người chồng là lao động chính và của cải của anh ta làm ra ngày càng nhiều, còn người vợ thì số của cải làm ra vẫn không tăng và “của cải tăng dần lên thì một mặt nó làm cho người chồng có một địa vị quan trọng hơn người vợ và mặt khác của cải đó khiến cho người chồng nảy ra xu hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn để thay đổi luật lệ thừa kế cổ truyền đặng làm lợi cho con cái minh…” tuy nhiên hôn nhân một vợ một chồng ở đây không thể được hiểu theo nghĩa đúng bản chất hôn nhân một vợ một chồng, bởi vì chế độ một vợ một chồng trong gia đình cá thể không phải do kết quả của tình yêu xây dựng nên mà trong cuộc hôn nhân có sự tính toán kinh tế. Chế độ một vợ một chồng xuất hiện đầu tiên trong gia đình cá thể và có nhiều biến dạng trong các xã hội có giai cấp đối kháng về sau không phải là sự liên kết trên cơ sở tình cảm mà là dự trên cơ sở tài sản.
3.2. Chế độ hôn nhân thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Xã hội phong kiến thừa nhận chế độ đa thê nên không thể có hôn nhân một vợ một chồng. Có thể lấu một vài dẫn chứng từ các điều luật trong một số bộ luật phong kiến như sau:
3.2.1. Theo Quốc triều hình luật.
Điều 309 quy định: Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt; vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có vợ thưa thì mới bắt tội).
Điều 310 quy định: vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt mà người chồng phải dấu không bỏ thì xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ.
3.2.2. Theo Dân luật Bắc (DLBK) kỳ và Hoàng việt trung kỳ bộ luật (HVTKBL)
Điều 80(DLBK) và 79 (HVTKBL) quy định: cấm không được lấy vợ thứ nếu chưa lấy vợ chính.
Điều 81 (DLBK) quy định: Khi nào tiêu h...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status