Tiểu luận Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định nguyên thủ quốc gia - pdf 13

Download Tiểu luận Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định nguyên thủ quốc gia miễn phí



 
MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề 1
2. Nội dung chính 1
2.1. Nguyên thủ quốc gia 1
2.2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước 2
2.3. Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành 3
2.3.1. Vị trí, tính chất và mối quan hệ với các
cơ quan nhà nước khác 3
2.3.2. Việc bầu Chủ tịch nước 4
2.3.3. Thẩm quyền của Chủ tịch nước 4
3. Kết luận 8
Danh mục tài liệu tham khảo


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39088/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề 1
2. Nội dung chính 1
2.1. Nguyên thủ quốc gia 1
2.2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước 2
2.3. Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành 3
2.3.1. Vị trí, tính chất và mối quan hệ với các
cơ quan nhà nước khác 3
2.3.2. Việc bầu Chủ tịch nước 4
2.3.3. Thẩm quyền của Chủ tịch nước 4
3. Kết luận 8
Danh mục tài liệu tham khảo 9 1.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, 2/9/1945 Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó đến nay, chúng ta vẫn tiếp tục đi theo con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy bộ máy nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia ở nước ta cũng được tổ chức và định hướng theo mô hình này. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, chế định chủ tịch nước của nước ta cũng có nhiều thay đổi trong vị trí, tính chất, tổ chức và hoạt động, gắn liền với sự ra đời của mỗi bản Hiến pháp. Hiện nay, theo pháp luật hiện hành và cụ thể là Hiến pháp 1992, nguyên thủ quốc gia của Việt Nam là Chủ tịch nước. Chúng ta đều biết hiện nay, đồng chí Nguyễn Minh Triết đang giữ chức vụ quan trọng này. Vậy chức vụ mà đồng chí ấy đang nắm giữ có vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn như thế nào? Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định đặc biệt này mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam của chúng ta đang tiếp tục quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Nguyên thủ quốc gia.
Nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong hệ thống bộ máy nhà nước hiện đại với các tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước và có vị trí, chức năng khác nhau tuỳ từng trường hợp vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992 (đặc biệt Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên thủ quốc gia là Hội đồng Nhà nước).
Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước XHCN khác do truyền thống lịch sử của mình và phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Vị trí thứ hai này của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước.Ở nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng.
Khi chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) theo Hiến pháp 1980 ngày càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng và xã hội đặt ra một yêu cầu, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1980, trong đó có chế định Chủ tịch nước thay thế cho Hội đồng nhà nước. Hiến pháp 1992 đã dành riêng chương VII để quy định về chế định này.
2.2.Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước.
Trước khi tìm hiểu chế định Chủ tịch nước trong pháp luật hiện hành, ta cần tìm hiểu qua về chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước. Từ đó, đưa ra những điểm giống và khác nhau giữa các bản Hiến pháp, đưa ra những nhận xét cần thiết về sự kết thừa, phát triển và hoàn thiện của chế định này.
Đối với Hiến pháp 1946: Chưa có chương riêng về Chủ tịch nước . Chủ tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu ra trong số các thành viên của Nghị viện (không quy định độ tuổi tối thiểu của Chủ tịch nước). Nhiệm kì 5 năm (Điều 45), độc lập với nghị viện là 3 năm (Điều 24). Chủ tịch nước vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu chính phủ (Điều 44, Điều 49). Quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn (Điều 49): Thay mặt cho Nhà nước, là tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, có quyền chủ trì các phiên họp của Chính phủ, có quyền ban hành các sắc lệnh có giá trị như luật, có quyền phủ quyết tương đối (Điều 31), thảo luận và biểu quyết lại về sự bất tín nhiệm với Nội các (Điều 54).Chủ tịch nước không chịu một trách nhiệm nào trừ tội phản bội Tổ quốc (Điều 50). Như vậy, quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn và khá giống với mô hình nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị.
Đối với Hiến pháp 1959: Chế định nguyên thủ quốc gia được quy định tại chương V. Nguyên thủ quốc gia do Quốc hội bầu nhưng không nhất thiết là đại biểu Quốc hội và phải từ 35 tuổi trở lên. Nhiệm kì bằng nhiệm kì Quốc hội là 4 năm. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, Chủ tịch nước là khâu phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ. Quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn khá lớn: Căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; công bố lệnh đại xá và đặc xá ; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh;công bố lệnh tổng động viên hay động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (Điều 63). Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định của Quốc hội hay của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn Hiệp ước kí với nước ngoài (Điều 64). Khi cần thiết được tham gia và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng chính phủ (Điều 66). Chủ tịch nước cũng có quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt khi xét thấy cần thiết (Điều 67). Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hộ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status