Luận án Pháp luật về chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ và EU và thực tiễn chống bán phá giá trong thương mại quốc tế của Việt Nam - pdf 13

Download miễn phí Luận án Pháp luật về chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ và EU và thực tiễn chống bán phá giá trong thương mại quốc tế của Việt Nam



Pháp luật Hoa Kỳ quy định thỏa thuận đình chỉ có thể được thực hiện dưới ba hình thức:
- Thỏa thuận ngừng xuất khẩu vào Hoa Kỳ sản phẩm đang bị điều tra: theo hình thức này thì doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải cam kết không xuất khẩu sản phẩm bị điều tra vào Hoa Kỳ nữa cho dù là với mức giá phá giá hay không, thực chất là từ bỏ hẳn thị trường Hoa Kỳ. Việc này phải được thực hiện trong vòng 6 tháng kể từ ngày hoạt động điều tra được đình chỉ theo thỏa thuận. Loại thỏa thuận này không được quy định cả trong pháp luật của WTO hay EU. Thực tế, các thống kê cho thấy chưa bao giờ có loại thỏa thuận này xảy ra đối với bất kỳ vụ kiện BPG nào tại Hoa Kỳ. Lý do đơn giản là vì khi doanh nghiệp đã xác định từ bỏ hẳn thị trường Hoa Kỳ thì họ cũng không quan tâm tới việc bị kiện BPG vì thế sẽ không khi nào phí công sức đi đàm phán về việc từ bỏ thị trường của mình.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39375/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

trong số các khu vực nhỏ hơn đó để xác định ngành sản xuất nội địa với điều kiện:
(1) Các nhà sản xuất trong khu vực thị trường đó bán tất cả hay gần như tất cả sản lượng của mình tại thị trường đó; (2) nhu cầu ở thị trường đó không được đáp ứng ở mức độ đáng kể bởi các nhà sản xuất ở nơi khác trong phạm vi lãnh thổ. Như vậy là trong trường hợp này, khu vực thị trường nhỏ hơn kia là một thị trường gần như tách biệt hoàn toàn trong lòng thị trường quốc nội, ở nơi đó các nhà sản xuất tại khu vực đó cung cấp đầy đủ cho nhu cầu của toàn bộ khu vực và không có sự tham gia đáng kể từ các doanh nghiệp bên ngoài khu vực. Trường hợp này, ngành sản xuất nội địa có thể không chiếm phần lớn ngành công nghiệp toàn quốc, thậm chí là có thể chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong đó. Tuy nhiên, nó vẫn được bảo hộ như một ngành sản xuất nội địa nếu như hàng hóa nhập khẩu phá giá gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất ở khu vực thị trường đó (Điều 4.1, ADA 1994).
Như vậy, những quy định trong pháp luật của WTO, Hoa Kỳ và EU cho phép áp dụng các cách thức rất linh hoạt để xác định quy mô và phạm vi của ngành sản xuất nội địa. Sự linh hoạt này rõ ràng đem lại khả năng tùy tiện lớn cho các nước nhập khẩu theo hướng bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường đó.
2.3.2. Nguyên tắc xác định thiệt hại gây ra đối với ngành sản xuất nội địa
Sau khi xác định được phạm vi và quy mô của ngành sản xuất nội địa cũng như các doanh nghiệp nội địa sản xuất ra sản phẩm tương tự, bước tiếp theo được tiến hành sẽ là xác định thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa đang phải gánh chịu từ khi có sự xuất hiện của hàng hóa BPG. Quá trình tiến hành xác định thiệt hại phải được thực hiện trên cơ sở hai nguyên tắc căn bản do WTO quy định và đã được nội luật hóa ở hầu hết các nước thành viên, đó là nguyên tắc “bằng chứng thuyết phục” (positive evidence) và nguyên tắc “xem xét khách quan” (objective examination) (Điều 3.1, ADA 1994).
Nội dung của nguyên tắc “bằng chứng thuyết phục” là việc xác định thiệt hại phải được tiến hành dựa trên các bằng chứng có tính thuyết phục đối với không những các cơ quan có thẩm quyền mà ngay cả đối với các bên đang tham gia vào vụ kiện. Các án lệ của WTO cũng đã chỉ rõ, chứng cứ được coi là có sức thuyết phục là các chứng cứ có đầy đủ bốn phẩm chất sau đây [113]:
- Thứ nhất: chứng cứ phải mang tính khẳng định (affirmative)
- Thứ hai: chứng cứ phải mang tính khách quan (objective)
- Thứ ba: chứng cứ phải có tính xác định được (verifiable), nghĩa là chứng cứ phải mang tính định lượng, phải đo đếm được.
- Thứ tư: chứng cứ phải đáng tin cậy (credible)
Tuy có những tiêu chuẩn khá chặt chẽ đối với đặc điểm của các chứng cứ, song về mặt phạm vi thì pháp luật của WTO, Hoa Kỳ và EU lại quy định khá rộng rãi về phạm vi các chứng cứ có thể được sử dụng để xác định thiệt hại do hành vi BPG gây ra. Ví dụ trong vụ Thái lan kiện H-Beams, Cơ quan phúc thẩm của WTO đã ra phán quyết theo chiều hướng mở rộng phạm vi chứng cứ mà cơ quan có thẩm quyền quốc gia có thể sử dụng.
Nguyên tắc “xem xét khách quan” đề cập trực tiếp tới cách thức tiến hành quá trình điều tra. Theo đó, tất cả các công đoạn của quá trình điều tra, bao gồm thu thập chứng cứ, xem xét và đánh giá chứng cứ, phải được tiến hành một cách trung thực và công bằng. Quá trình điều tra không được thể hiện sự thiên vị hay nhằm tới việc làm lợi cho bất kỳ bên nào hay nhóm lợi ích nào.
2.3.3. Thiệt hại đáng kể (material injury)
Theo quy định của WTO, Hoa Kỳ và EU các cơ quan điều tra BPG phải xác định được mức độ thiệt hại mà sản phẩm BPG đã hay có thể gây ra đối với ngành sản xuất nội địa để làm cơ sở cho việc ra quyết định có đánh thuế chống BPG hay không. Thiệt hại đáng kể luôn được đề cập đến như một hình thức hậu quả pháp lý có khả năng cao nhất dẫn tới các biện pháp chống BPG. Mặc dù vậy, cả quy định của WTO và pháp luật của EU đều không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về “thiệt hại đáng kể”. Trong pháp luật của Hoa Kỳ tuy có đưa ra một định nghĩa về “thiệt hại đáng kể” song với nội hàm rất mơ hồ và không giúp làm sáng tỏ gì hơn cho khái niệm này. Pháp luật của Hoa Kỳ quy định như sau: “thuật ngữ “thiệt hại đáng kể” có nghĩa là những thiệt hại mà không phải là nhỏ, không đáng kể hay không quan trọng” (Điều 1677.(7), USC 19).
Trong thực tiễn áp dụng, “thiệt hại đáng kể” được xem là những mất mát về vật chất mà ngành sản xuất nội địa, mà trực tiếp là nhóm các doanh nghiệp sản xuất cấu thành nên ngành sản xuất nội địa, đang phải gánh chịu ở một mức độ nhất định. Cơ quan có thẩm quyền sẽ là người quyết định mức độ nào được coi là đủ “đáng kể” để thiệt hại đó có thể dẫn tới thuế chống BPG. Luật lệ của WTO có quy định về những tiêu chí và cách thức nhất định mà các cơ quan có thẩm quyền ở các nước thành viên phải căn cứ vào đó trong quá trình xác định thiệt hại đáng kể. Những quy định này cũng đã được nội luật hóa gần như hoàn toàn vào pháp luật của Hoa Kỳ và EU. Để xác định mức độ thiệt hại có phải là đáng kể hay không, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét ba yếu tố: (1) số lượng hàng hóa BPG; (2) ảnh hưởng của hàng hóa BPG tới giá cả của sản phẩm tương tự trên thị trường nội địa; và (3) tác động tới ngành sản xuất nội địa.
Liên quan tới yếu tố thứ nhất, cơ quan điều tra BPG của nước nhập khẩu phải xác định xem số lượng hàng hóa đang bị kiện BPG là bao nhiêu. Thông thường thì số lượng này càng lớn thì sẽ càng dễ dẫn tới khả năng thiệt hại mà hàng hóa đó gây ra càng gần với mức độ “đáng kể”. Tuy vậy, WTO, Hoa Kỳ và EU đều không quy định cụ thể số lượng hàng hóa nhập khẩu lớn đến như thế nào thì sẽ được coi là đủ lớn. Quy định thống nhất chung chỉ là nếu số lượng hàng hóa đang bị kiện BPG thấp hơn một mức tối thiểu thì ngay lập tức được coi là không đáng kể và quá trình điều tra BPG sẽ ngay lập tức được dừng. Có ba trường hợp được quy định có liên quan tới mức định lượng tối thiểu như vậy:
- Trường hợp thứ nhất, biên độ phá giá thấp hơn 2% (Điều 5.8, ADA 1994; Điều 1673b.(b)(3), USC 19; Điều 9.3, Quy định EC 384/96).
- Trường hợp thứ hai: nếu số lượng hàng hóa đang bị điều tra được nhập từ một nước xuất khẩu và chiếm ít hơn một tỷ lệ phần trăm nhất định. Theo quy định của WTO và Hoa Kỳ thì tỷ lệ này là 3% tổng kim ngạch nhập khẩu của sản phẩm tương tự trên toàn thị trường nhập khẩu (Điều 5.8, ADA 1994; Điều 1673b.(b)(24)(A)(i), USC 19). Ở EU, tỷ lệ này là 1% thị phần của sản phẩm tương tự đang bị kiện (Điều 5.7, Quy định EC 384/96), tỷ lệ 1% có vẻ là thấp, nhưng lại được tính trên mẫu số chung là toàn bộ thị trường của sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. Mẫu số này đương nhiên lớn hơn tổng lượng hàng nhập khẩu vào thị trường một nước. Cách xác
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status