Tiểu luận Một số vấn đề về di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Một số vấn đề về di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng



Pháp luật dưới chế độ cũ ở Việt Nam trước năm 1945 cũng quy định về di tặng trong các Bộ dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và trong các sắc lệnh điền thổ ngày 21 tháng 7 năm 1925 và ngày 29 tháng 3 năm 1939. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật nói trên phân biệt sự “tặng dữ” với “di tặng” và được gọi là: “Sinh thời tặng dữ” và “ Di tặng nhân tử”, chúng đều được hiểu là “cho tài sản”.
- Đối với “sinh thời tặng dữ” được thực hiện khi người tặng còn sống và người được tặng đồng ý nhận. Theo án lệ ở Nam Bộ trước đây thì sự tặng dữ bao giờ cũng có thể bị người tặng dữ bãi bỏ, trừ trường hợp người được tặng dữ đã chuyển giao tài sản tặng dữ cho người thứ ba thông qua một giao ước. Nhưng theo quy định của Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và các Sắc lệnh điền thổ nói trên thì: Sự tặng dữ không thể bị truất bãi. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể (vợ hay chồng vi phạm đạo đức hay người vợ đã phạm vào một trong bảy điểu “thất xuất” sau: Không thể sinh con; dâm dật; không thờ cha, mẹ chồng; lắm điều; trộm cắp; ghen tuông; có ác tật) thì sự tặng dữ bị bãi bỏ. Dân luật Trung kỳ còn quy định: Sự tặng dữ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể bị truất bãi bất cứ lúc nào và vô điều kiện, mặc dù khi cho đã có điều kiện cấm đòi lại (Điều 798).
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39116/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hương hỏa.
Đối với việc thờ cúng: “Người ăn hương hỏa dùng hoa lợi của hương hỏa và trong phạm vi của hoa lợi ấy phải lo việc thờ cúng và sửa sang phần mộ. Người ấy có thể dùng một phần hương hỏa để chi dùng cho riêng mình” ( Điều 428, 429). Nếu trong chứng thư hương hỏa có nói rõ những ngày để cúng giỗ, mỗi lần đó dùng lễ vật gì thì người ăn hương hỏa phải theo đúng như vậy. Chẳng hạn ngày giỗ, ngày Tết, ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng, ngày Tết Nguyên tiêu, ngày thanh minh, ngày sửa sang phần mộ, nếu có từ đường phải tổ chức cúng giỗ ngay tại từ đường. Trong trường hợp người ăn hương hỏa bỏ không cúng giỗ, sao nhãng hương đèn, không quản lí trông coi di sản hương hỏa, không chấp hành đúng các nghi thức lễ giỗ thì có thể bị truất quyền (không được hưởng hương hỏa nữa). Sự truất quyền này sẽ do hội đồng gia tộc quyết định phải được Tòa duyệt.
Tuy nhiên, di sản dùng vào việc thờ cúng có thể không trường tồn ngoài ý muốn của cá nhân do bị tiêu hủy hay người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng tuyệt tự hay di sản đó bị trưng dụng do hội đồng gia tộc quyết định hay theo quy định của pháp luật. Luật pháp của chế độ thực dân – phong kiến còn quy định trong trường hợp một người vì không có con, cháu hay không có con trai thì việc thờ cúng đó vẫn được thực hiện theo một trong hai hình thức xác lập, chuyển giao ruộng đất dùng vào việc thờ cúng người đó sau khi qua đời được gọi là “hậu điền” và “kỵ điền”.
Hậu điền và kỵ điền khác nhau về căn cứ xác lập và đều khác hương hỏa, mặc dù chúng đều được dùng vào một mục đích là thờ cúng người đã chết và tổ tiên người đó,… Nếu người hưởng hương hỏa là con trai, cháu trai của người để lại hương hỏa thì đố với người được chuyển giao hậu điền hay kỵ điền lại là người có thể thuộc dòng họ bên nội hay chỉ là người cùng làng (thôn) của người đó.
- Đối với hậu điền: Trong trường hợp một người vì không có con, cháu khi còn sống đã hiến ruộng đất cho dòng họ hay cho làng (thôn) để làm việc công ích ( cho dòng họ hay cả làng) với mục đích khi người hiến ruộng đất chết thì dòng họ hay làng sẽ cúng giỗ người này. Hình thức xác lập và chuyển giao tài sản dùng vào việc thờ cúng trong trường hợp này được gọi là “hậu điền”.
- Đối với kỵ điền: Tài sản dùng vào việc thờ cúng còn được hình thành khi một người do không có con trai thì con gái mua ruộng để hiến cho dòng họ của bố hay cho làng (thôn) với mục đích dòng họ hay làng có nghĩa vụ cúng giỗ cho cha, mẹ của người con gái đã hiến ruộng đó.
Như vậy, hậu điền là ruộng đất thuộc di sản của người chết để lại, còn kỵ điền không là ruộng đất thuộc di sản của người chết mà là tài sản của người con gái (do cha mẹ không có con trai) đã hiến cho dòng họ của bố hay cho làng để lo thực hiện việc cúng giỗ cho cha mẹ của người con gái đó.
Qua những phân tích trên đây có thể thấy di sản dùng vào việc thờ cúng có vị trí độc lập so với các di sản khác trong khối di sản mà người chết để lại.
2.2 Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của công dân được pháp luật cho phép. Pháp luật còn quy định về việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng và cách giải quyết trong các mối quan hệ khác.
Từ Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950 cho đến trước ngày TAND tối cao ban hành Thông tư số 81, ở nước ta không có một văn bản pháp luật nào quy định về di sản thờ cúng. Trong Thông tư số 81 chỉ hướng dẫn giải quyết tranh chấp nhà thờ họ mà chưa đề cập đến những vấn đề cụ thể của di sản thờ cúng. Thông tư số 81 đã hướng dẫn giải quyết tranh chấp về nhà thờ họ như sau: Nhà thờ họ có từ lâu đời hay nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền của để xây dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ. Trong trường hợp trưởng họ xây dựng nhà thờ bằng tài sản của mình thì khi người trưởng họ chết, nhà thờ này là di sản thừa kế của trưởng họ.
Pháp lệnh thừa kế được ban hành thì di sản thờ cúng được quy định cụ thể hơn tại Điều 21 Pháp lệnh thừa kế: Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản, nếu những người thừa kế đó đều đã chết thì di sản đó thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thừa kế theo pháp luật. Nội dung của quy định này được hiểu là vào thời điểm mở thừa kế thì di sản thờ cúng là di sản chưa chia, nhưng nó sẽ được chia khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc của người quá cố. Quy định này không quy định rõ phần mà người lập di chúc dành ra để dùng vào việc thờ cúng. Như vậy, họ có thể để lại toàn bộ di sản dùng vào việc thờ cúng mà không bị coi đó là hành vi định đoạt tài sản vượt quá phần mà pháp luật cho phép.
Người đang quản lý di sản thờ cúng có quyền quản lý di sản thờ cúng và hưởng dụng mà không có quyền sở hữu, do đó không có quyền định đoạt di sản thờ cúng dưới bất kỳ hình thức nào.
Khi Bộ luật dân sự (BLDS) được ban hành, di sản thờ cúng được quy định tại Điều 670 (BLDS năm 2005). So với Điều 21 của Pháp lệnh thừa kế thì Điều 670 có sự thay đổi đáng kể, thể hiện rõ nét hơn truyền thống của dân tộc và tính chất của di sản thờ cúng. Điều 670 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hay không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Theo khoản 1 Điều 670 BLDS năm 2005, người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng dựa trên một trong hai căn cứ: Theo ý chí của người lập di chúc hay do những người thừa kế chỉ định. Việc xác định người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc hay không thuộc diện những người thừa kế theo pháp luật có ý nghĩa pháp lý trong việc hư
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status