Tiểu luận Thực trạng pháp luật về công ty chứng khoán và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Thực trạng pháp luật về công ty chứng khoán và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán



MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 0
B. NỘI DUNG 1
I. Khái quát về công ty chứng khoán 1
1. Khái niệm công ty chứng khoán 1
2. Đặc điểm công ty chứng khoán 1
II. Pháp luật về việc thành lập, cấp giấy phép hoạt động công ty chứng khoán 3
1. Điều kiện được cấp giấy phép kinh doanh 3
2. Trình tự thủ tục thành lập và cấp giấy phép hoạt động 6
III. Thực trạng pháp luật về công ty chứng khoán và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán. 7
1. Thực trạng pháp luật 7
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty chứng khoán 9
C. KẾT LUẠN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39576/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

h doanh chứng khoán; bao gồm, một số hay toàn bộ các hoạt động; môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán”.
2. Đặc điểm công ty chứng khoán
2.1. Đặc điểm về luật điều chỉnh
Chứng khoán là một bộ phận của lĩnh vực tài chính ngân hàng- một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện (quy định tại Điều 29 Luật Đầu tư 2005 và được cụ thể hóa trong Điểm 2 Phụ lục C của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết một số lĩnh vực kinh doanh có điều kiện), vì vậy nó cũng là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. CTCK là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán nên phải chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan
2.2. Đặc điểm về hình thức pháp lý
Tương tự pháp luật các nước, pháp luật Việt Nam cũng quy định CTCK chỉ được phép tồn tại dưới một trong hai hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Quy định này xuất phát từ những cơ sở nhất định:
Một là: đối tượng kinh doanh của CTCK là chứng khoán- một loại hàng hóa “đặc biệt” mang lại khả năng lợi nhuận cao nhưng mức độ rủi ro lớn.
Hai là: yêu cầu về vốn dành cho loại hình kinh doanh này rất lớn so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Mô hình doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh có cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, chịu trách nhiệm vô hạn trước phần vốn góp, không tách bạch tài sản doanh nghiệp và tải sản của chủ doanh nghiệp. Ngược lại mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần lại có những đặc tính ưu việt: khả năng huy động vốn lớn nhưng lại khá đơn giản và linh hoạt, chủ sở hữu và công ty là hai chủ thể độc lập về pháp lý và tài sản, chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tối đa bằng phần vốn cam kết góp của mình. Hơn nữa cơ cấu tổ chức quản lý và kiểm soát hoạt động khá chặt chẽ, tập trung và chuyên biệt. Nghĩa vụ công bố thông tin đầy đủ, kịp thời hơn.
2.3. Đặc điểm về lĩnh vực kinh doanh
Theo quy định tại Khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán quy định: “kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Điều 60 quy định cụ thể: “CTCK được phép thực hiện một, một số hay toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán”.
Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, phải đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật quy định. Để tham gia kinh doanh chứng khoán trên TTCK có rất nhiều chủ thể khác nhau bao gồm: công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, ngân hàng thương mại và CTCK. Nhưng chủ thể cơ bản nhất đặc trưng nhất là CTCK. Điểm phân biệt rõ nhất giữa các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà họ được phép thực hiện
Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mang lại lợi ích khác nhau thậm chí là đối lập mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia trên TTCK và CTCK lẫn nhà đầu tư. Dựa trên tình hình thực tiễn và quan điểm của nhà làm luật mà pháp luật quốc gia cũng quy định khác nhau về nghiệp vụ kinh doanh nào mà CTCK được phép thực hiện, nghiệp vụ kinh doanh nào CTCK không được thực hiện. Có một số nước thì CTCK chỉ được phép thực hiện một hoạt động kinh doanh chứng khoán, nhưng cũng có những nước khác thì CTCK lại được phép tất cả các hoạt động kinh doanh chứng khoán đi kèm với đó là phải tách biệt các hoạt động với nhau
2.4. Quản lý công ty chứng khoán: ủy ban chứng khoán nhà nước
Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) là cơ quan do Nhà nước thành lập trực thuộc Bộ tài chính chuyên trách quản lý giám sát hoạt động của TTCK, thành viên của TTCK trong đó có CTCK. UBCKNN quản lý bằng các hoạt động ban hành quy chế, thanh tra giám sát, xử lý vi phạm
II. Pháp luật về việc thành lập, cấp giấy phép hoạt động công ty chứng khoán
1. Điều kiện được cấp giấy phép kinh doanh
Điều kiện thành lập CTCK là tổng thể các quy định do pháp luật đặt ra đối với các chủ thể muốn thành lập công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Lĩnh vực kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực kinh doanh có độ rủi ro lớn nên phải tuân thủ các điều kiện pháp lý chặt chẽ. Đó là các điều kiện về hình thức pháp lý, về vốn, về nhân sự cũng như các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật.
1.1. Điều kiện về hình thức pháp lý
Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật chứng khoán 2006 thì: “công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiện hữu hạn hay công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp”. Việc quy định về hình thức tổ chức CTCK trong Luật chứng khoán 2006 tương tự Luật chứng khoán của các quốc gia. Sở dĩ Luật chứng khoán quy định CTCK chỉ được tổ chức dưới hai hình thức này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau.
Luật chứng khoán 2006 đã hướng tới sự bình đẳng trong kinh doanh chứng khoán giữa CTCK trong nước và CTCK có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này thể hiện cụ thể trong các quy định cụ thể có liên quan tới CTCK có vốn đầu tư nước ngoài.
Trước đây các nhà đầu tư nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam chỉ có thể thành lập theo hình thức công ty liên doanh giữa tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài với đối tác Việt Nam. Đối với CTCK liên doanh, bên nước ngoài dự định tham gia liên doanh phải là tổ chức kinh doanh hoạt động hợp pháp tại nước mà tổ chức này đóng trụ sở chính. Tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài không quá 49% vốn điều lệ của CTCK liên doanh.
Hiện nay, ngoài hình thức liên doanh pháp luật còn mở rộng thêm hình thức “góp vốn cổ phần, công ty 100% vốn nước ngoài” (Điều 7 Luật chứng khoán 2006). Bên cạnh đó, Luật còn quy định cho phép các CTCK nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam (Điều 77), văn phòng thay mặt tại Việt Nam sau khi đăng ký hoạt động với UBCKNN (Điều 78). Những quy định mang tính đột phá này tạo nên sân chơi bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và CTCK trong nước, thực hiện đúng lộ trình cam kết của Việt Nam khi tham gia ký kết các hiệp ước quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua UBCKNN đã cấp phép cho một số CTCK theo hình thức góp vốn cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ như sự ra đời của công ty cổ phần chứng khoán Kim Eng (tháng 02/2008) với 49% vốn góp của tập đoàn tài chính Kim Eng- tập đoàn tài chính lớn thứ hai của Singapore... Điều này càng làm cho TTCK Việt Nam thêm rộng hơn.
1.2. Điều kiện về vốn
Trong môi trường kinh doanh chứng khoán luôn chứa đựng rủi ro lớn nên các CTCK phải đảm bảo sự hoạt động của ổn định lâu dài và có tiềm lực tài chính mạnh. Vì vậy pháp luật của các nước cũng ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status