Tiểu luận Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán



MỤC LỤC
 
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1
LỜI MỞ ĐẦU . 2
I. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CHỨNG KHOÁN . . 3
1. Khái niệm . 3
2. Phân loại 3
2.1. Rủi ro hệ thống . . 3
2.1.1. Rủi ro thị trường . . 3
2.1.2 Rủi ro lãi suất . 3
2.1.3. Rủi ro sức mua . . 4
2.2. Rủi ro phi hệ thống . 4
2.2.1. Rủi ro kinh doanh . 5
2.2.2 Rủi ro tài chính . 6
II. CÁC BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN .6
1. Giải pháp đối với công ty niêm yết . 6
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và công tác quản trị công ty
2. Giải pháp đối với CTCK . 7
Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho NĐT
3. Giải pháp đối với các nhà đầu tư 8
3.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư 8
3.2. Quản lý và kiểm soát rủi ro . 8
3.3. Kết hợp phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản . 9
4. Kiến nghị đối với UBCKNN và các cơ quan chức năng 9
4.1. Cung cấp hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường 9
4.2. Triển khai và áp dụng các công cụ tài chính phái sinh . 9
4.3. Nâng cao chất lượng hoạt động công bố và minh bạch hóa thông tin
của các chủ thể tham gia trên thị trường . 10
4.4. Nâng cấp và phát triển hệ thống công nghệ thông tin . . 11
4.5. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và nâng cao hiệu quả
công tác thanh tra, giám sát thị trường 11
4.6. Hình thành và phát triển các định chế trung gian . . 12
4.7. Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về CK và TTCK . 13
KẾT LUẬN . 15
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39487/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hữu hình hay vô hình. Sự đánh giá rằng lợi nhuận của các công ty nói chung có xu hướng sụt giảm có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại CP thường bị giảm giá. Các NĐT thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực tế xảy ra, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường xuất phát từ những sự kiện hữu hình nhưng do tâm lý không vững vàng của các NĐT nên họ hay có những phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sụt giảm đầu tiên của giá CP trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các NĐT và họ sẽ cố gắng rút vốn bằng cách bán CP. Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số lượng bán, giá cả CP sẽ rơi xuống thấp so với giá trị nội tại của nó. Tuy nhiên, vẫn có thể có hiện tượng mua vào rất nhiều khi có những sự kiện bất thường xảy ra, lúc đó giá cả CP sẽ tăng lên.
2.1.2 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là do dao động trong mức lãi suất chung.
Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất chuẩn (có thể là lãi suất TP Chính phủ), khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại CK khác, đó là các loại CP và TP công ty. Nói cách khác, sự thay đổi về chi phí vay vốn đối với các loại TP Chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại CK của công ty.
Các NĐT thường coi tín phiếu kho bạc là không rủi ro. Các loại TP Chính phủ kỳ hạn dài thì không có rủi ro thanh toán (nhưng vẫn có rủi ro về giá cả). Các mức lãi suất TP Chính phủ có kỳ hạn khác nhau được dùng làm chuẩn để xác định lãi suất TP công ty có thời gian đáo hạn tương tự. Do vậy, những thay đổi trong lãi suất TP Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống CK, từ TP cho đến các loại CP rủi ro nhất.
Lãi suất TP Chính phủ cũng thay đổi theo cung cầu trên thị trường. Khi ngân sách thâm hụt thì Chính phủ sẽ phát hành thêm TP để bù đắp, như vậy sẽ làm tăng mức cung CK trên thị trường. Các NĐT tiềm năng sẽ chỉ mua các TP này nếu lãi suất cao hơn lãi suất các loại CK đang lưu hành. Do lãi suất TP Chính phủ tăng, nó sẽ trở nên hấp dẫn hơn và các loại CK khác sẽ bị kém hấp dẫn đi. Hệ quả là, những người này quyết định mua TP Chính phủ thay vì mua TP công ty, và do vậy lãi suất TP công ty cũng phải tăng lên. Lãi suất TP công ty tăng sẽ dẫn đến giá của TP giảm và cũng làm cho giá của các loại CP thường và CP ưu đãi giảm xuống như một phản ứng dây chuyền.
Như vậy, ta thấy có sự ảnh hưởng của việc thay đổi lãi suất do các loại công cụ có liên hệ với nhau. Sự tăng lên của lãi suất chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Hệ quả trực tiếp của việc tăng lãi suất chuẩn là giá cả của các loại CK khác giảm xuống.
2.1.3. Rủi ro sức mua
Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là các biến cố về số tiền thu được hiện nay của NĐT. Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư.
Nếu chúng ta xem khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, ta có thể thấy rằng khi một người mua CP, anh ta đã bỏ mất cơ hội mua hàng hóa hay dịch vụ trong thời gian sở hữu CP đó. Nếu trong thời gian nắm giữ CP đó, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng, các NĐT bị mất một phần sức mua. Giá cả hàng hóa dịch vụ tăng gọi là lạm phát, giá cả hàng hóa dịch vụ giảm gọi là giảm phát. Cả lạm phát và giảm phát đều liên quan đến khái niệm rủi ro sức mua. Yếu tố lạm phát (giảm phát) sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ gây tác động tới giá cả CK.
2.2. Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro phi hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền với một công ty hay một ngành nghề, lĩnh vực cụ thể nào đó ngoài những rủi ro gắn liền với toàn bộ thị thị trường. Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công, cạnh tranh nước ngoài, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh, qui định của Chính phủ và nhiều yếu tố khác là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong thu nhập từ CP công ty. Do những yếu tố này chỉ ảnh hưởng tới một ngành hay một công ty cụ thể nên chúng phải được xem xét cho từng công ty.
Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể là do môi trường của hoạt động kinh doanh và tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
2.2.1. Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là tính khả biến hay không chắc chắn về EBIT của DN. Có nhiều yếu tố dẫn đến tính bất ổn trong EBIT của DN, bao gồm: tính khả biến của doanh thu, các chi phí hoạt động, tính biến đổi của giá bán, sự tồn tại sức mạnh thị trường, phạm vi đa dạng hóa sản phẩm,…
Rủi ro kinh doanh có thể chia làm 2 loại: rủi ro từ bên trong công ty (chính sách quản trị công ty) và rủi ro từ bên ngoài công ty (môi trường kinh doanh).
Rủi ro kinh doanh bên trong gắn liền với hiệu quả của hoạt động kinh doanh mà công ty đang tiến hành. Mỗi công ty có một hệ thống các rủi ro kinh doanh với các mức độ rủi ro khác nhau riêng của mình. Một sự thay đổi lãnh đạo không đúng lúc và đúng người, chính sách marketing không hiệu quả, dự báo sai lầm về tính mùa vụ của sản phẩm dẫn đến tồn kho quá nhiều,… có thể làm giảm đáng kể lợi nhuận.
Rủi ro kinh doanh bên ngoài là kết quả của những ảnh hưởng môi trường kinh doanh đến lợi nhuận của công ty. Mỗi công ty phải đối mặt với một hệ thống các yếu tố rủi ro bên ngoài khá riêng biệt phụ thuộc vào môi trường hoạt động riêng biệt của chính họ. Đó có thể là vụ tẩy chay của khách hàng khi phát hiện sản phẩm của công ty không đảm bảo chất lượng hay khi một nhà cung cấp hủy hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu quan trọng làm nhà máy phải hoạt động cầm chừng và có thể đi đến ngừng hoạt động. Đó cũng có thể là do xuất hiện một đối thủ cạnh tranh quốc tế trên thị trường làm công ty mất thị phần ở mức đáng kể, hay Chính phủ cấm hút thuốc nơi công cộng, nâng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe hơi và rượu,…. Nhân tố bên ngoài quan trọng nhất có lẽ là chu kỳ kinh doanh. Doanh thu của một số ngành công nghiệp (thép, ôtô) có xu hướng biến đổi theo chu kỳ, trong khi đó một số ngành khác lại không có tính chu kỳ (công nghiệp thực phẩm). Những yếu tố dân số học như tuổi thọ, giới tính,… cũng ảnh hưởng đến thu nhập. Chính trị cũng là một trong những rủi ro bên ngoài của hoạt động kinh doanh. Chính sách của Chính phủ, nhất là những chính sách liên quan đến tiền tệ và thuế khóa có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của các công ty cũng như mức độ sẵn sàng của các nguồn vốn.
Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Sự biến động của thu nhập lại được đo bằng độ lệch chuẩn của chuỗi thu nhập hoạt đ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status