Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ - pdf 13

Download miễn phí Luận văn Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ



Hai QTD Yến Mao và Phượng Mao do Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) hỗ trợ thành lập từ năm 1996 với cách thức tiếp cận theo mô hình ngân hàng Grameen. Cả hai mô hình được xây dựng dựa trên nguyên tắc xây dựng nguồn vốn tại chổ kết hợp với nguồn vốn bên ngoài để cho vay một khoản nhỏ không thế chấp trong thời gian ngắn hạn, với lãi suất đủ trang trải và tuân theo một phương pháp trả góp. Nguồn vốn hình thành từ cộng đồng thông qua hình thức tiết kiệm định mức và tiết kiệm tự nguyện



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

bảo đảm cho người cùng kiệt tập dượt kỹ năng quản lý, sử dụng vốn vào hoạt động tăng thu nhập và bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý cho hoạt động tài chính của tổ chức. Tất cả các sản phẩm vay được QTD thiết kế phù hợp với nhu cầu của nhóm khách hàng mục tiêu về cả mục đích sử dụng, nhu cầu vốn, và khả năng hoàn trả. Các sản phẩm vay của QTD tập trung phục vụ đối tượng cùng kiệt và cung cấp cho khách hàng dựa theo cam kết hoàn trả vốn vay, và không yêu cầu thế chấp.
Hiện tại các QTD tại Việt Nam có các sản phẩm vay được phân loại theo chu kỳ hoàn trả nợ vay: hoàn trả vốn vay theo hàng ngày, hàng tuần hay hàng tháng, và hàng năm. Mỗi thành viên vay vốn đều có quyền lựa chọn các nguồn vốn khác nhau tùy thuộc vào mục đích sử dụng của mình. Đối với các QTD có quy mô lớn về nguồn vốn và thành viên sẽ có nhiều sản phẩm vay vốn, các quỹ có quy mô nhỏ sẽ có ít các sản phẩm vốn vay, và thông thường chỉ một sản phẩm vốn vay. Các sản phẩm vốn vay tùy thuộc vào quyết định của các thành viên và được thảo luận trong các kỳ đại hội thành viên. Ví dụ đối với Tổ chức phát triển vì người cùng kiệt có 4 loại vốn khác nhau: vốn chung có thời hạn 25 kỳ (mỗi kỳ 15 ngày), mức vốn khoảng 1 triệu đồng; vốn bổ sung có thời hạn 3 tháng với mức vốn 300 nghìn đồng hoàn trả gốc cuối kỳ; vốn thời vụ với thời hạn 6 tháng với mức vay 500 nghìn đồng trả gốc vào cuối kỳ; vốn trung hạn thời hạn 50 kỳ với mức vay 3 đến 5 triệu, hoàn trả gốc và lãi theo từng kỳ.
Hiện tại lãi suất tiết kiệm và lãi suất cho vay vốn của các QTD tại Việt Nam không được xác định dựa trên năng lực, kế hoạch kinh doanh của tổ chức mà được xác định theo thị trường. Lãi suất tiết kiệm và vay vốn thường được xác định dựa trên lãi suất của NHNo với sự thống nhất của các thành viên tham gia. Thông thường lãi suất tiết kiệm của thành viên dao động từ 0,4 đến 0,6%/tháng, và lãi suất cho vay vốn dao động từ 1,0 đến 1,2%/tháng. Lãi suất của các món vay có thời hạn khác nhau có thể khác nhau tùy theo quy định của mỗi tổ chức.
Các thành viên nếu có nhu cầu vay vốn sẽ làm đơn vay vốn và gửi đến tổ trưởng. Sau khi tổ trưởng và các thành viên trong tổ bình xét, nếu đồng ý sẽ chuyển lên BQL bình xét lần cuối. Nếu đơn xin vay vốn được chấp nhận thì làm hợp đồng vay vốn, việc giải ngân vốn vay được tiến hành tại văn phòng BQL QTD hay tại tổ tín dụng, tùy thuộc theo quy định của các QTD. Thời gian làm đơn vay vốn cho cho đến khi được vay vốn trong vòng khoảng tối đa là 1 tháng, và không phải thế chấp.
2.2 Hoạt động Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại xã Yến Mao và Phượng Mao
2.2.1 Giới thiệu tổng quan về xã Yến Mao và Phượng Mao
2.2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội
Thanh Thủy là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ, huyện có địa giới hành chính phía Bắc giáp huyện Tam Nông, phía Tây Nam giáp huyện Thanh Sơn, sông Đà là ranh giới phía Đông với huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Trung tâm huyện cách thủ đô Hà nội 65 km về phía Tây; cách trung tâm tỉnh 50 km. Thanh Thủy là cửa ngõ nối liền các tỉnh phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội, là cửa ngõ giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh Phú Thọ với Hà Nội, Hà Tây, Hòa Bình và các tỉnh phía Tây Bắc.
Yến Mao và Phượng Mao là hai xã nằm ở phía nam của huyện Thanh Thủy, cách trung tâm huyện khoảng 30 km. Hai xã nằm trải dài theo bờ sông Đà và tiếp giáp với huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cả hai xã có đường tỉnh lộ 317 chạy qua địa bàn xã, đây là con đường duy nhất để các xã có thể giao lưu với các thị trường bên ngoài như thành phố Việt Trì, thị xã Hòa Bình, đây là một trong những thuận lợi về phát triển kinh tế xã hội của xã.
Về địa hình, cả hai xã đều có nhiều đồi núi, mặt bằng bị chia cắt bởi nhiều hệ thống sông và suối do đó rất không bằng phẳng. Diện tích đất lâm nghiệp của Yến Mao chiếm 34,2% diện tích đất tự nhiên, và Phượng Mao là 15,2%. Diện tích đất lâm nghiệp được sử dụng chủ yếu vào trồng cây lầm nghiệp phục vụ nhu cầu của nhà máy giấy Bãi bằng, và một phần nhỏ được các hộ gia đình trồng sắn. Theo báo cáo của UBND xã thì hầu hết diện tích đất lâm nghiệp có trên địa bàn đã được phủ xanh bằng trồng mới và bảo vệ các diện tích dừng tái sinh.
Thanh Thủy có 15 đơn vị hành chính trực thuộc với tổng dân số tính đến tháng 10 năm 2005 là 75,4 nghìn người, có 2 dân tộc chung sống là dân tộc Kinh và Mường với người Mường chiếm tỷ lệ 5,7 % dân số. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là 1 %, cao so với tỷ lệ tăng dân số của tỉnh Phú Thọ (0,84 %). Cơ cấu dân số phân theo giới tính là 50,82 % là nam và 49,12 là nữ, mật độ dân số là 617,2 người/km2. Tổng số nhân khẩu của Yến Mao là 4151 khẩu (trong đó lao động chiếm 54,5%), Phượng Mao là 2718 khẩu (lao động chiếm 53,7%). Trong 2 xã, thì Yến Mao và Phượng Mao là nơi tập trung nhiêu dân tộc Mường (chiếm hơn 70% tổng dân số).
Trình độ học vấn hiện nay của dân cư huyện Thanh Thủy thuộc vào loại cao so với tỉnh Phú Thọ và cả nước, số người chưa biết chữ chỉ chiếm 0,5% so với tổng số dân toàn huyện, trong khi đó tỷ lệ này trong cả nước là 3,5%.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm trong thời gian này lên 9,35%; giá trị sản xuất nông lâm tăng bình quân là 8,13%; sản lượng lương thực có hạt năm 2005 đạt 27.872 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 13,7%; giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 13,7%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,48 %. Cơ cấu kinh tế của huyện: nông – lâm nghiệp đạt 50,3%; công nghiệp xây dựng đạt 24,5%, dịch vụ đạt 25,2%.
Với sản xuất nông nghiệp là chính cộng với điều kiện địa hình khó khăn, xa trung tâm huyện nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ cùng kiệt còn cao. Theo như đánh giá của UBND các xã nếu tính theo chuẩn cùng kiệt mới (thu nhập dưới 200.000đ/người/tháng) thì tỷ lệ hộ cùng kiệt tại Yến Mao là 47% và Phượng Mao là 39,5%.
2.2.1.2 Hoạt động tài chính vi mô tại Yến Mao và Phượng Mao
Hoạt động tài chính vi mô chính thức
Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng chính sách xã hội đã thay thế Ngân hàng phục vụ người cùng kiệt trước đây. Ngân hàng này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và khả năng thanh toán được Nhà nước đảm bảo. NHCSXH triển khai các hoạt động giải ngân tại hai xã nghiên cứu theo 2 kênh chính là Hội phụ nữ và Hội nông dân. Nguồn vốn này có mức vay thông thường từ 10 đến 15 triệu đồng, tuy nhiên tại xã thường cho vay với mức vay trung bình từ 3 đến 7 triệu đồng với mức lãi suất là 0,45%/tháng với thời điểm trước năm 2006 và là 0,6%/tháng với thời điểm từ năm 2006 đến nay. Hình thức trả lãi theo mỗi quý trả một lần, gốc sẽ trả vào một năm trước ngày đáo hạn là 1/3 nguồn vốn vay, năm cuối sẽ hoàn trả vào ngày đáo hạn.
Hiện tại tổng nguồn vốn của NHCSXH đã giải ngân tại hai xã Yến Mao và Phượng Mao là 2.389 triệu đồng với tổng số hộ cùng kiệt đang vay vốn là 532 hộ. Nguồn vốn trên các hộ chủ yếu đầu tư vào các hoạt động chăn nuôi đại gia súc như trâu...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status