Tiểu luận Vấn đề trong nền văn học Việt Nam trước và sau năm 1975 - pdf 14

Download miễn phí Tiểu luận Vấn đề trong nền văn học Việt Nam trước và sau năm 1975



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1
2.1. Đối tượng nghiên cứu 1
2.2. Phạm vi nghiên cứu 1
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Bố cục 2
NỘI DUNG 3
Chương I: Khái quát chung 3
1.1.Khái niệm Đề tài văn học 3
1.2.Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống 3
Chương II: Vấn đề Đề tài trong nền văn học Việt Nam trước và sau năm 1975 5
2.1. Đề tài trong văn học Việt Nam trước năm 1975 5
2.1.1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa –xã hội 5
2.1.2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu 6
2.1.3. Những đặc điểm cơ bản 9
2.2. Vấn đề Đề tài trong văn học Việt Nam sau năm 1975 10
2.2.1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa –xã hội 10
2.2.2. Những chuyển biến và một số thành tựu 11
KẾT LUẬN 14
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

đề tài gần như đồng nhất với khái niệm chủ đề.
Đề tài biểu hiện khái niệm về loại của hiện tượng đời sống, do vậy, có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống là có bấy nhiêu đề tài. Việc phân thức đề tài phải chỉ ra bản chất xã hội của hiện tượng. Những thuộc tính chung về đề tài là căn cứ xác định, tập hợp các tác phẩm thành nhóm đề tài như các tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết du đãng, truyện khoa học viễn tưởng, truyện ngụ ngôn…
1.2.Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống
Bối cảnh thời đại ít nhiều dội vang trong tác phẩm. Bối cảnh là một trong những nhân tố quan trọng. Do đó, yếu tố quan trọng quyết định xu hướng và đề tài của văn học chính là hiện thực cuộc sống.
Như ý kiến của Trần Đình Sử, Lê Hồng Vân, Lê Xuân Vũ: “Hiện thực trong mệnh đề “ văn học phản ánh hiện thực” mà chúng ta luôn nghe nhác lại đó phải được hiểu là cuộc sống của con người với tất cả sự phong phú đa dạng của nó, chứ không phải là các sự kiện, hiện tượng, các chi tiết ngẫu nhiên, hoạt động bên ngoài con người”.
Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, lập trường đối với đời sống. Với mỗi giai đoạn khác nhau, văn học lại có cách phản ánh và nội dung phản ánh khác nhau.
Hiện thực cuộc sống muôn màu, muôn vẻ với nhiều hình thức tồn tại khác nhau. Bất kì tác phẩm nào, dù là thuộc chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa siêu hiện thực hay chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa vị lai đều có tính chất thật dù có tự giác hay không.
Tất cả những yếu tố, những chỉnh thể văn học đến phương pháp sáng tác, thể loại văn học…đều băt nguồn sâu xa từ hiện thực khách quan, từ đời sống xã hội.
Cũng như giai đoạn 1945 -1975 hiện thực nổi bật nhất của giai đoạn này là hiện thực của đời sống chính trị xã hội với hai nội dungc chính: cuộc chiến tranh vệ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi cả nước một lòng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc thì tư tưởng “văn nghệ phục vụ chính trị” được tuyệt đối hóa, dẫn đến sự ra đời của một nền văn học phản ánh hiện thực là một điều cấp thiết. Trước năm 1975, hoàn cảnh chiến tranh và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã chi phối cách tiếp cận và phản ánh hiện thực trong văn học. Các nhà văn thời chống Mĩ chủ yếu viết theo những mô típ quen thuộc: sự đổi mới, hồi sinh (Mùa lạc – Nguyễn Khải), tinh thần dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh cho cách mạng, cho nhân dân (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi, Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Hòn đất – Anh Đức…). Văn học thời kì này đi theo một con đường quen thuộc: từ nô lệ đến giải phóng, từ bóng tối đến ánh sáng, từ đau khổ đến hạnh phúc.
Sau 1975, văn học không tiếp tục đi trên con đường mòn đó nữa mà nó được mở thêm rất nhiều lối mới, phạm vi cũng rộng hơn rất nhiều. Các nhà văn đã mở rộng hiện thực bằng cách tạo nên tính đa nghĩa cho chủ đề của mình. Trước đây, vì điều kiện lịch sử, văn học thường có khuynh hướng miêu tả một chiều, thường là quá tốt, chưa thực, mà cuộc sống vốn đa chiều, đa diện, trong tốt có xấu và trong xấu có tốt, có khổ đau và có hạnh phúc… Giờ đây, những hạn chế của thời kì trước được khắc phục và tất cả các mặt của cuộc sống cứ thế lần lượt được mổ xẻ, soi rọi qua từng trang viết của mỗi nhà văn. Văn học từ 1975 đến nay đã tạo được sự khác biệt so với giai đoạn trước. Lúc này, văn học không còn tuyệt đối phục vụ cho chính trị nữa mà nó trở về với con người, với những gì bình dị nhưng cũng không ít vấn đề nảy sinh trong cuộc sống đời thường
Văn học từ sau 1975 đặc biệt chú ý đến nông thôn Việt Nam. Một loạt tác phẩm đã lấy bối cảnh nông thôn như: Bến không chồng – Dương Hướng, Thời Xa vắng – Lê Lựu, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra – Nguyễn Minh Châu, Mảnh đất lắm người nhiều ma – Nguyễn Khắc Trường,… Nông thôn vốn là một không gian yên bình, là nơi bảo tồn những giá trị truyền thống của dân tộc, là nơi tình người thắm đượm sắt son. Tuy nhiên đây cũng là nơi trói buộc con người trong những tư tưởng lạc hậu, những tập tục cổ hủ, những tập quán tréo ngoe. Ta có thể thấy sức mạnh của lời nguyền từ rất lâu đời của dòng họ Nguyễn qua biết bao bi kịch của các thế hệ cháu con trong tác phẩm “Bến không chồng” của Dương Hướng: “Nước sông Đình ngàn năm không cạn/ Cầu Đá Bạc vạn kiếp trơ trơ/ Bến Tình còn đẹp còn mơ/ Mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi”. Lời nguyền truyền kiếp đã cản trở tình yêu giữa Vạn và Nhân, đã gây bao trắc trở, đắng cay, tủi nhục cho Hạnh và Nghĩa. Trong tác Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường cũng đã phơi bày một hiện thực nông thôn rùng rợn, xung quanh mối xung đột kéo dài nhiều thế hệ giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình. Tác phẩm phơi bày những mâu thuẫn gay gắt, với những màn đấu trí, đấu lực hừng hực lòng thù hận, lúc này chẳng còn đâu tình hàng xóm láng giềng, tình đồng bào ruột thịt giữa hai dòng họ. Bao cái dở của dòng họ gặp cái yếu kém và sự lợi dụng của tổ chức Đảng và chính quyền địa phương đã xáo trộn cuộc sống của rất nhiều người, gây ra bi kịch cho những con người lương thiện như bà Son, Đào... Những cái nhìn chân thực, sắc sảo trong tác phẩm như một hồi chuông để mọi người giật mình nhìn lại những gì đã và đang xảy ra.
Viết về đề tài chiến tranh, bên cạnh những chiến công hiển hách, bên những tượng đài chiến thắng đầy vinh quang là biết bao những đớn đau, biết bao là nước mắt, đắng cay, tủi cực của những con người trở về từ cuộc chiến và giờ đây bắt đầu lại với cuộc sống đời thường. Giờ đây, các nhà văn không đi vào miêu tả, tái hiện lại không khí chiến trận đầy mưa bm bão đạn nữa mà tập trung vào những số phận con người, những bi kịch của con người trong những mảng đời riêng đã bị chiến tranh hủy hoại. Như nhân vật Nghĩa trong tác phẩm “Bến không chồng” của Dương Hướng đã bị chiến tranh cướp đi quyền làm cha để rồi từ đó gia đình anh tan nát, người vợ anh yêu thương phải rời xa anh. Nhân vật Lực trong “Cỏ lau”của Nguyễn Minh Châu nói mà như khứa vào lòng người đọc “chiến tranh, kháng chiến không phải như một số người khác, đến bây giờ tui không hề mảy may hối tiếc dốc tất cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tui bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ”. Những vết thương mà chiến để lại trong tâm hồn những người lính sẽ không thể phai nhòa. Và cuộc sống xã hội thực tại với đầy mưu mô toan tính càng làm người lính thấy mình chới với, chơi vơi. Họ đã bị thương về thể xác nhưng họ còn đau đớn hơn nhiều với những vết thương trong tâm hồn. Những lí tưởng cao đẹp, những chiến công oanh liệt, những địa vị cao sang cũng không thể bù đắp những quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người. Đó là quyền làm chồng, làm cha. Đó là quyền làm vợ, làm mẹ. Các nhà văn đã có một s
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status