Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay - pdf 14

Download miễn phí Luận văn Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay



Tỉnh Phú Thọ được người dân cả nước đều biết đến như là một mảnh đất “địa linh
nhân kiệt”. Nơi hợp lưu của các con sông lớn như: sông Hồng, sông Đà, sông Lô. Nơi
truyền rằng có kinh đô Văn Lang và hiện nay cũn cú đền thờ các Vua Hùng trên núi
Nghĩa Lĩnh Những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gũ Mun, Đông Sơn, đó gắn truyền thuyết vào với hiện thực đời thường, minh
chứng cho sự xuất hiện của cư dân Việt Mường (người Việt cổ) trên đất Phú Thọ từ hơn
mười ngàn năm trước [25, tr.30 - 35].



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung:

ó
nơi gọi là cồng vặn) dùng để đánh trùng âm, loại trung bỡnh được gọi là cồng “đúm”,
nhỏ nhất trong bộ cồng và có âm thanh cao nhất, thánh thót nhất là cồng boũng beng.
Hội sộc bựa được tổ chức vào nhiều dịp trong năm, nhưng phổ biến là trong dịp tết
nguyên đán. Đầu năm phường bùa (bao gồm cả nam và nữ) từ 15 đến 20 người, đi thành
hàng một, dẫn đầu là người mang cồng boũng beng, rồi đến cồng đúm, cồng khệ, cồng
đàm. Đầu tiên phường bùa đến những nhà có hẹn trước để hát sắc bùa, theo tục lệ thỡ
chủ nhà sẽ tập trung anh, em để đón nhưng cổng nhà vẫn đóng, phường bùa sẽ phải
đánh cồng và hát bài hát mở cổng:
“Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào cũn đèn cũn lửa
Mở cửa cho chúng tui vào…”.
Chủ nhà mở cổng đón, phường bùa đi vào sân, vừa đi vừa đánh cồng và hát bài hát
chúc tụng, ngợi ca:
“…Chúc tết nhà ông
Vườn trước có cau, vườn sau có mít
Vựa lỳa nếp cũn đến tháng năm
Gạo tẻ tháng mười chưa hết…” [73, tr. 146-147].
Sau cuộc hát, chủ nhà mang thóc gạo tặng phường bùa, nắm thóc trên tay chủ nhà
được vói nhẹ vào chiếc cồng đàm, người cầm cồng sẽ ngửa cồng đỡ lấy; thóc, gạo rơi
vào lũng chiếc cồng giống như gieo mạ, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, tốt tươi của
mùa màng trong năm. Nhận thóc gạo từ chủ nhà, phường bùa hát bài tạ ơn rồi tiếp tục đi
sang nhà khác [52, tr.31].
Múa trống đu: Đây là một trong những hỡnh thức mỳa trống độc đáo của tất cả
các làng người Mường ở Phú Thọ, nhưng nay chỉ cũn được tổ chức ở xó Tất Thắng,
huyện Thanh Sơn. Khi múa trống, người ta đặt một chiếc trống cơm lên trên mặt một
chiếc trống cái, người đánh trống là một ông già và 6 đến 8 cặp trai, gái tay cầm kèm
kẹp (hai thanh tre dài 40cm, rộng 4cm) xếp thành vũng xung quanh. ễng già tay cầm
trống cơm, tay kia gừ vào trống cỏi theo nhịp, mỗi lần di chuyển ụng thường gừ một tiếng
vào mặt trống cỏi và dứ trống cơm về phớa cỏc cặp trai gỏi cho họ gừ cựng. Điệu múa vui
vẻ, rộn ràng, giống như người cha và đàn con đang vui đùa với nhau, mừng mùa màng bội
thu và gia đỡnh hạnh phỳc. Cú người cho rằng: có thể xuất xứ của điệu múa là “múa trống
đùa” và vỡ một lý do nào đó được gọi chệch thành múa trống đu [43, tr.32].
Hội đu quay (tu xe): đây là trũ chơi ngày xuân, cho đến nay vẫn cũn khỏ phổ biến
ở cỏc vựng Mường trong tỉnh. Hỡnh thức chiếc đu quay gần giống với chiếc cọn nước,
bốn cột gỗ lớn được chôn chắc chắn xuống đất, trên đỉnh cột bắc một trục xoay với các
nan bằng gỗ, đầu mỗi đôi nan treo một ghế. Thường thỡ mỗi cõy đu có 12 ghế ngồi (ghế
đơn) dành cho 6 cặp nam, nữ. Chiều 29 tết, ông mo của làng sẽ làm lễ “cúng đu”, cỗ
cúng sẽ do một gia đỡnh trong làng đảm nhiệm (nhiệm vụ này được các gia đỡnh luõn
phiờn qua cỏc năm). Khi chơi đu quay, người đạp đà sẽ trèo lên đỉnh cột, dùng chân đạp
vào các nan cho đu quay trũn, cỏc cặp chơi ngồi trên các ghế quay mặt vào nhau và hát
những câu hát xuân, ví giao duyên, kết bạn. Hội đu kéo dài suốt nhiều ngày trong dịp
tết, không chỉ thu hút các cặp trai, gái Mường đến tỡm nhau trong hội đu, mà cũn là dịp
vui gặp gỡ của cỏc ụng, bà (ụụng, mế) trong ngày xuõn. Đu quay là một trũ chơi đũi hỏi
đôi bàn tay khéo léo và cả sức khỏe của các chàng trai mường từ khi dựng đu đến hết
hội. Người Mường quan niệm, nếu khi cúng đu mà đổ vỡ bát đĩa, không cắt được tiết
gà, cỗ cúng xong không mời mọi người ăn mà đem về nhà… thỡ chơi đu sẽ có người
ngó. Do vậy, cho đến nay đĩa để bày cỗ cúng người ta vẫn dùng đĩa cắt từ lá chuối tươi,
cúng xong sẽ mời tất cả mọi người có mặt lúc đó ăn cỗ tại gốc đu. Hội đu bắt đầu vào
sáng mùng một tết, nhưng thường thỡ hỏt vớ đu chỉ nhộn nhịp về đêm; hội đu quay kéo
dài đến hết tháng giêng, sau đó người ta tháo rời cây đu, đem gỗ ngâm xuống ao làng,
đợi mùa xuân năm sau.
Hát ghẹo: Đây là một hỡnh thức ca hỏt điển hỡnh thể hiện tỡnh kết nghĩa “nước
anh, nước em” giữa cư dân mường Thục Luyện, Hùng Nhĩ (huyện Thanh Sơn) với cư
dân Kinh ở xó Nam Cường (huyện Tam Thanh). Tục truyền, một năm đỡnh làng Nam
Cường bị cháy, nhờ có sự giúp đỡ của hai xó Thục Luyện, Hựng Nhĩ lấy gỗ, Nam
Cường mới dựng lại được đền, từ đó họ kết nghĩa anh em. Do vậy, cứ đến ngày lễ thần
Tản Viên 13/3 âm lịch và ngày hội đỡnh Nam Cường 9/9 âm lịch họ lại gặp nhau. Hỏt
ghẹo là hỡnh thức hỏt chay, khụng mỳa, khụng cú nhạc đệm, âm điệu của hát ghẹo vừa
mang âm hưởng hát Ví của người Kinh, hát Rang của người Mường. Không khí cuộc
hát vui vẻ, tự nhiên, không chịu ảnh hưởng của các loại nhạc lễ. Trong cuộc hát, mỗi
lượt hai nam hát đối đáp với hai nữ, vừa hát vừa nhỡn nhau, đối hợp câu, hợp giọng,
phản ánh được tỡnh kết nghĩa anh em và cảnh quan của miền trung du cũng như cuộc
sống sinh hoạt của nhân dân trong vùng [73, tr.90].
Ngoài cỏc hỡnh thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian nêu trên, người Mường
ở Phú Thọ cũn cú nhiều hỡnh thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác như: ném cũn,
mỳa mỡi, mỳa đâm ống…
Trong tục cưới: Cũng giống như một số các dân tộc khác, việc cưới xin là một
trong những sự kiện quan trọng của một đời người, kiếp người, đây không chỉ là dịp vui
cho riêng đôi trai gái, mà là ngày hội cho cả hai họ và cả mường. Trước khi tiến tới hôn
nhân, đôi trai gái có quyền được gặp gỡ hẹn hũ trong cỏc lễ hội, trong cỏc phiờn chợ,
trong cỏc buổi cựng nhau đi làm đồng; họ có thể gặp gỡ, có thể tặng nhau những kỷ vật
làm tin như chằm bạc (vũng bạc), chiếc tỳi vải tự dệt…nhưng quan trọng hơn cả vẫn là
những quyết định của cha mẹ. Người Mường nặng quan niệm “môn đăng hộ đối”, quan
niệm hôn nhân ngoại tộc (chín đời vẫn góp giỗ nên không được lấy nhau); từ đó việc
kén vợ, chọn chồng cho con rất khắt khe, nhiều khi những quy định ấy lại trở thành tai
họa, trở thành nguyên nhân cho sự đổ vỡ những quan hệ tỡnh cảm của đôi trai gái. Hôn
nhân của người Mường xưa có rất nhiều thủ tục, có nơi từ lúc nhà trai đem miếng trầu
đầu tiên đến xin nhà gái cho đôi trẻ qua lại tỡm hiểu đến lúc tổ chức đám cưới (thường
là 3 năm) phải có đủ 12 “cái lễ”, hỡnh thức rất nhiờu khờ và phức tạp, gõy tốn kộm tiền
của khụng ớt; trong thời gian 3 năm đó chàng trai phải mang đến nhà gái (đôi gà, yến gạo
nếp, chục lít rượu) và các loại bánh phù hợp với các ngày lễ; đặc biệt là dịp tết nguyên đán,
rằm tháng giêng, tết nguyên tiêu (3/3), tết 5/5, lễ xá tội vong nhân (rằm tháng 7), tết cơm
mới (10/10)…là không thể thiếu. Hiện nay, ở một số vùng mường hẻo lánh ở Phú Thọ
vẫn cũn những nghi thức này, tuy việc sắm lễ cú nhẹ hơn so với trước. Trong đám cưới
của người Mường, thách cưới là do nhà gái đưa ra, họ quan niệm nuôi con khôn lớn để
nhà trai lấy về nên cha mẹ cô dâu cần được nhà trai trả công xứng đáng; lễ vật thách
cưới ch
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status