Tìm hiểu một vài luật tục của người Mường - pdf 14

Download miễn phí Tìm hiểu một vài luật tục của người Mường



MỤC LỤC
I.Vài nét sơ lược về cuộc sống người Mường
Lời mở đầu
1. Dân số
2. Cư trú
3. Đặc điểm kinh tế
4. Hôn nhân gia đình
5. Văn hóa
6.Nhà cửa
7. Trang phục
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
2.Tang lễ ma chay
3.Phong Tục lễ tế của người mường
4.Tục hát Xec-Bùa của người Mường
III. Kết luận
 
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung:

Bộ khung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên cây đòn tay cái để đỡ kèo khỏi bị tụt. Nhà có chái nhưng không có vì kèo chái như nhà người Việt. Chỗ dựa của bộ xương mái là nhờ vào hai cây pắp cal và một cây léo hè, đầu gác lên thanh giằng hai kèo gần chỏm kèo.
Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định có tính ước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh hoạt của nữ gọi là "bên trong". Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gọi là "bên ngoài". Và, nếu chia nhà theo chiều dọc, nửa nhà phía sau (nơi đặt bàn thờ tổ tiên) gọi là "bên trên". Còn nửa kia gọi là "bên dưới". Một đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo của bếp: bếp được đặt trong một cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống góc của cái khung này dựng bốn cột làm giá đỡ các dàn (dựa) bếp. một trong hai cột giáp vách bao giờ cũng buộc một cái chum nhỏ để đựng mẻ (người Mường rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanh nhà bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thường có một miếu thổ thần, quy mô nhỏ như một cái lều.
Trang phục Mỗi dân tộc đềucó đặc trưng riêng trang phuc về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục. trang phuc của người Mường cũng có những nét độc đáo riêng của nó + Trang phục nam Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hay thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hay quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là "khăn quần". Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hay tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải. + Trang phục nữ áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hay trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ) Nhóm Mường Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong dịp lễ, Tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
II .Một Số tục lệ cơ bản của người Mường
1.Phong tục cưới hỏi
Mỗi dân tộc có một phong tục, một nét văn hóa riêng trong nghi lễ hỏi – cưới. Đám cưới của người Mường ở Ao Luông (Văn Chấn, Yên Bái) cũng có những điểm độc đáo khác biệt, mang đậm nét văn hóa đặc trưng của họ. Người Mường rất tôn trọng sự tự nguyện trong việc dựng vợ gả chồng cho con cái.
Trước đây người Mường Ao Luông có phong tục cưới xin rất phức tạp, nhiều nghi lễ. Việc hôn nhân của con cái được quan niệm là do “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, bố mẹ ưng ý thì con cái phải thuận theo bố mẹ. Ngày nay, việc cưới hỏi của người Mường đã giảm bớt phép tắc, đã được tự do yêu đương, tự do tìm hiểu.
Lễ hội Nàng Han tổ chức hàng năm từ ngày 5/5 đến hết tháng 3 âm lịch cũng là dịp để trai gái tìm hiểu lẫn nhau. Khi đã tìm hiểu kỹ thì báo với hai bên cha mẹ để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho một đám cưới. Lúc này, nhà trai sẽ tìm một ông mối, nhà gái tìm một bà mối đến để đôi bên gia đình nói chuyện, đối đáp với nhau. Người Mường Ao Luông cũng có quan niệm giống người Kinh về những điều kiêng kỵ trong hôn nhân, đó là những người cùng họ tộc không được lấy nhau, phải cách nhau ít nhất là 3 đời.
Khi sang nhà gái dạm hỏi, ông mối phải mang theo 12 chiếc bánh sừng bò (bánh gói bằng lá cây chít), một chai rượu gạo nếp, đặt trước với bố mẹ cô gái để thưa chuyện. Bố mẹ cô gái nếu đồng ý thì nhận và làm một bữa cơm chiêu đãi ông mối rồi nhà gái treo 12 chiếc bánh lên cột nhà gần khu bếp 3 ngày 3 đêm.
Trong khoảng thời gian 3 ngày 3 đêm đó nếu có con chim cú mèo kêu thì đó là điềm báo không tốt, trai gái hai nhà không nên lấy nhau. Ngược lại, nếu không có cú mèo kêu thì là điềm tốt, sau 3 ngày nhà gái sẽ gọi ông mối nhà trai đến, mang rượu ra uống và đồng ý gả con gái.
Lễ dạm hỏi của người Mường Ao Luông trước kia thông thường phải trải qua 5 lần đi lại:
Lần 1: Nhà trai mang 1 chai rượu, buồng cau, lá trầu, chè khô.
Lần 2: Khi nhà gái nhận lời thì mang bánh chưng, rượu, chè khô.
Lần 3: Mang theo bánh dày, 2 chai rượu, 1 buồng cau, chè khô.
Lần 4: Nhà trai mang đến bánh dày và rượu.
Lần 5: Nhà trai mang đến cau, trầu, bánh dày và rượu và đây là lần nhà trai chính thức xin ngày ăn hỏi.
Theo thời gian, việc cưới xin của người Mường đã đơn giản hơn rất nhiều, nhà trai sau khi đến nhà gái thưa chuyện nếu được nhà gái đồng ý thì về chuẩn bị lễ ăn  hỏi với các lễ vật thông thường như: rượu, thịt, tiền mặt sau đó chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức đám cưới.
Cô dâu khi về nhà chồng thường có một số của hồi môn do chính tay mình làm như: chăn, chiếu, gối, đệm tặng những người già, bố, mẹ, anh, chị, em ruột bên nhà trai. Cô dâu mới được gia đình nhà chồng nhận xét đánh giá là đảm đang, ngoan hiền hay không phụ thuộc vào số của hồi môn mà cô mang theo, bởi vì để làm được số của hồi môn trên thì từ lúc 12 – 13 tuổi cô dâu đã phải chuẩn bị các vật dụng để làm.
Tục hôn nhân của dân tộc Mường xưa nay tồn tại hai hình thức là đón dâu về ở hẳn nhà chồng và tục lấy rể (tục lấy rể thường là ở những gia đình thiếu con trai). Tục ở rể thì trước đây nhà trai phải chủ động sắm lễ để ra mắt chàng rể tại bên nhà gái. Theo quy ước thì lễ ra mắt gồm có các lễ vật đó là: 4 thúng gạo nếp, 1 buồng cau, 40 chai rượu, một bó trầu, 2 tạ lợn, chọn khoảng 20 – 30 người thanh niên chưa vợ để khiêng các đồ lễ vật sang nhà gái.
Đồng bào Mường có tục chăng dây khi nhà trai đến cổng nhà gái hay có hai người canh cửa không mở, bao giờ nhà trai cho tiền họ mới mở cửa. Khi cửa mở đi đầu sẽ là một cô gái thay mặt cho họ nhà trai đội 1 mâm xôi có hai con gà trống thiến đã mổ và luộc chín. Gà trên mâm phải có cựa nếu không con gà đó sẽ không có ý nghĩa gì và nhà gái căn cứ vào đó sẽ không đón tiếp nhà trai.
Cho đến khi ông mối đưa được chàng rể vào trong nhà sàn là mọi thử thách nhà gái đặt ra với chàng rể đã hết. Ông mối hết trách nhiệm và giao quyền cho ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status