Ung thư tuyến giáp dịch tễ học – chẩn đoán – điều trị - pdf 14

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
MỤC LỤC
Phần I: Đặt Vấn Đề trang 1
Mục tiêu 2
Phần II:Đối tượng và PP nghiên cứu 3
Phần III: Tổng quan tài liệu 5
1. Lịch sử 6
2. Giải phẩu tuyến giáp 7
3. Giải phẩu tuyến phó giáp 17
4. Mô học 19
5. Sinh lý tuyến giáp 20
6. Bệnh học 23
Phần IV:Kết quả và bàn luận 44
1. Kết quả 45
2. Bàn luận 67
Phần V: Kết luận 77
Phần VI:Tài liệu tham khảo 83
J.Beck có lẽ là người đầu tiên báo cáo một trường hợp ung thư tuyến giáp vào năm 1883.
Về phương diện phẫu thuật, Galen (160-200 AD) đã mổ các trường hợp bướu giáp và ghi nhận có biến chứng liệt thần kinh hồi thanh quản.
Albucasis (950 AD), ở Zahra (Á Rập), là người đầu tiên cắt tuyến giáp thành công. Tuy nhiên, thành công này chỉ xảy ra trong muôn một, vì hầu hết các bệnh nhân này chắc chắn sẽ bị tử vong vì xuất huyết và nhiễm trùng.
1791 Pierre Desault bắt đầu thực hiện cắt giáp, đến 1870 báo cáo 70 trường hợp với tỉ lệ tử vong 41%.
1882 Reverdin tạo ra phù niêm thực nghiệm qua cắt giáp toàn phần. Đến 1890 Murray và Howitz đã dùng trích tinh tuyến giáp để điều trị phù niêm.
1877 Billroth ở Vienna, đã thực hiện cắt giáp, tỉ lệ tử vong giảm xuống còn 8%; nhờ các tiến bộ về gây mê, phương pháp vô trùng và kỹ thuật cầm máu được áp dụng. Ông cũng nêu ra các biến chứng liệt thàn kinh hồi thanh quản, suy tuyến phó giáp.
Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là Theoder Kocher, giáo sư về phẫu thuật ở Berne (Thụy Sĩ), là người tiên phong trong phẫu thuật tuyến giáp. Năm 1887 ông đã thực hiện hơn 4000 trường hợp cắt giáp với tỉ lệ tử vong khoảng 4,5/2000. Ông đưa ra nguyên tắc mổ tỉ mỉ, bảo tồn thần kinh hồi thanh quản và tuyến phó giáp; và xác định rằng cắt giáp toàn phần sẽ gây ra suy giáp. Để tránh biến chứng này, ông khuyên nên cắt giáp gần toàn phần. Chính những đóng góp quí giá này, ông đã xứng đáng nhận giải thưởng Nobel vào năm 1909.
Ở Hoa Kỳ, W.S.Halsted cũng đã phát triển kỹ thuật cắt giáp của chính ông sau nhiều cơ hội tiếp xúc với Kocher.
1924 Theoder Kocher đã mô tả các trường hợp ung thư tuyến giáp và đưa ra cách điều trị. Tuy nhiên, 1925 Breiter cho rằng ung thư tuyến giáp sẽ giết chết người bệnh trong vòng 1 năm. Năm 1938 Urban ghi nhận điều trị ung thư tuyến giáp chỉ là một cơ may.
Trong suốt 50 năm đầu của thế kỷ 20, các nhà bệnh học nghiên cứu về ung thư tuyến giáp cũng bị rối lên vì tính chất phức tạp của loại bệnh này. Cho đến khi có sự phát triển về đồng vị phóng xạ I131, giúp cho hiểu rõ hơn trong việc chẩn đoán và điều trị.
2. GIẢI PHẪU HỌC TUYẾN GIÁP [14],[42],[47],[36]
Tuyến giáp có hình như một con bướm xòe cánh, với hai cánh bướm là hai thùy bên, đi từ trung điểm sụn giáp đến vùng sụn khí quản số 6, còn thân bướm ở giữa là eo giáp nằm ngay trước vòng sụn khí quản 2,3,4.
Có 50-80% trường hợp có một thùy thứ 3 gọi là thùy tháp (tháp La louette) đi từ bờ trên eo giáp, lệch trái đường giữa đi lên, dính với xương móng bởi một dải sợi liên kết không có mạch máu, đó là di tích của ống giáp lưỡi trong thời kỳ phôi thai.
Tuyến giáp bình thường màu hồng, hơi đỏ, mềm, bề mặt trơn láng, đôi khi có những rãnh phân cách nhỏ, có thể rõ ràng, tạo nên các tiểu thùy rõ, thường thấy ở mặt sau tuyến giáp nhất là ở gần cực dưới, khiến ta có thể lầm với bướu tuyến của tuyến phó giáp.
Trọng lượng tuyến giáp là 0,3 gram/kg thể trọng[14], hay 25-30g thay đổi trong khoảng 10-50 g, tùy theo chủng tộc, địa lý, giai đoạn sinh lý của cơ thể (dậy thì, có thai, cho con bú : tuyến giáp có thể tăng trọng lượng và kích thước).
Thùy bên có hình tháp với kích thước : cao 5-8 cm, rộng 2-4 cm, dài 1-2,5 cm.
2.1. Liên quan : Phía trước eo giáp từ nông đến sâu là da; mô dưới da; cơ bám da cổ; lá nông mạc cổ (còn gọi là cân cổ nông); lá trước khí quản mạc cổ (còn gọi là cân cổ giữa) bao các cơ dưới móng. Phía sau eo giáp là vòng sụn khí quản 2,3,4. Thùy bên: Phía trước ngoài của thùy bên từ nông đến sâu là cơ ức- đòn chũm, cơ vai móng, cơ ức móng, cơ ức giáp, hai cơ này nằm trong cân cổ giữa. Phía sau ngoài thùy bên là bao cảnh với các thành phần của nó: động mạch cảnh chung, tĩnh mạch cảnh trong, thần kinh lang thang (nằm trong góc nhị diện của động mạch cảnh chung và tĩnh mạch cảnh trong). Phía trong của thùy bên là sụn giáp, sụn nhẫn, cơ nhẫn giáp, mặt ngoài các sụn khí quản, cơ khít hầu dưới, thực quản. Mặt sau thùy bên là thần kinh hồi thanh quản và tuyến phó giáp.
2.2. Phương tiện cố định :[14],[42],[47]
Tuyến giáp được bao phủ bởi hai bao: bao xơ bên ngoài và mạc tạng bên trong. Mạc tạng dính sát vào nhu mô giáp từ đó cho ra những vách xơ, chia tuyến giáp không hoàn toàn thành các tiểu thùy. Giữa hai bao (bao xơ và mạc tạng) là lớp mô liên kết lỏng lẻo, rất dễ bóc tách, có mạch máu và thần kinh tuyến phó giáp đi bên trong. Đặc điểm này được ứng dụng trong phẫu tích tuyến giáp.Bên cạnh các phương tiện cố định như mạch máu, mô liên kết quanh tuyến, sự tiếp xúc chặt chẽ với các cơ dưới móng, cơ ức đòn chũm, tuyến giáp còn được cố định vào sụn thanh quản, khí quản bởi các dây chằng.
Một dây chằng giữa (dây chằng giữa Gruber, còn gọi là dây chằng treo) nối phần trên mặt sau của eo với mặt trước sụn nhẫn và mặt trước vòng sụn khí quản 1- 2 (và dây chằng nhẫn khí quản, dây chằng liên sụn khí quản). Phần dưới eo giáp gắn vào mặt trước khí quản bởi một mô liên kết lỏng lẻo.
Hai dây chằng bên (dây chằng bên trong Gruber, dây chằng Berry) đi từ mặt trong mỗi thùy đến các vòng sụn khí quản 1,2,3, và đôi khi đến sụn nhẫn.
Do các dây chằng này, tuyến giáp di động cùng với thanh quản, khí quản, thực quản.Khi nuốt điều này giúp phân biệt bướu giáp với các bướu ở giữa cổ khác, như bọc dạng bì, bọc bã.
2.3. Mạch máu:


/file/d/1cdnVP7 ... sp=sharing
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status