Một số biện pháp mở rộng quan hệ tín dụng Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Standard Chartered, Hà Nội - pdf 15

Download miễn phí Luận văn Một số biện pháp mở rộng quan hệ tín dụng Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Standard Chartered, Hà Nội



Vốn là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy không một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển mà lại thờ ơ với việc tính toán làm sao để thu nhiều lợi nhuận. Để có vốn kinh doanh sẽ có hàng loạt các câu hỏi được đặt ra và một điều có thể trả lời dứt khoát là trong nền kinh tế thị trường muốn kinh doanh phải có vốn ban đầu. Như vậy vốn kinh doanh sản xuất đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng rất quan trọng.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ng trước nguy cơ rủi ro tín dụng lớn. Nhưng nếu Ngân hàng quá thận trọng trước rủi ro đạo đức, đột ngột cắt đứt hợp đồng tín dụng, Ngân hàng sẽ bị thiệt thòi về lãi, mặt uy tín với khách hàng.
3.2. Sự điều khiển của “bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường
Ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn huy động được đem cho các cá nhân, các chủ doanh nghiệp cần vốn vay. Nếu vì một lý do nào đó người vay gặp rủi ro không hoàn trả được món tiền vay thì rõ ràng Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng, mà trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp rất dễ bị rủi ro. “Bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường đang rình rập đe doạ các nhà kinh doanh cũng như đặt Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro tín dụng.
3.3. Môi trường kinh tế
Bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào đều chịu chi phối của môi trường xung quanh. Mỗi sự biến động của nó đều ảnh hương tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh tiền tệ nếu nhà Ngân hàng không đoán được sự biến động này sẽ dẫn đến sự làm ăn kém hiệu quả và gây ra những rủi ro.
3.4. Các nguyên nhân khách quan khác.
Ngân hàng có thể gặp rủi ro tín dụng từ nguyên nhân khách quan khó lường trước được như người vay có thể gặp thiên tai, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, hoả hoạn… dẫn đến những việc không trả được nợ cho Ngân hàng.
Mặt khác Ngân hàng dùng nguồn vốn huy động được của mình đem cho các doanh nghiệp, các cá nhân cần vốn vay. Nếu một lý do nào đó, người vay gặp rủi ro không hoàn trả được món tiền. Mà rủi ro ở các doanh nghiệp nảy sinh rất nhiều yếu tố khác nhau. Chẳng hạn như sản xuất ra sản phẩm không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm ứ đọng, không quay vòng vốn làm lợi nhuận giảm dẫn đến phá sản… và còn biết bao nhiêu những nguyên nhân nữa chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường đe doạ những nhà kinh doanh cũng như rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
II. Tín dụng và vai trò tín dụng Ngân hàng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Theo quan niệm truyền thống, tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển cho người khác quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật nào đó với những điều kiện nhất định mà hai bên thoả thuận, những điều kiện đó dùng về số lượng, chất lượng tiền tệ, thời hạn cho vay và khối lượng phải trả thêm. Đứng trên phương diện nghiệp vụ là bất cứ động tác nào đó, một người đưa vốn hay hứa đưa vốn cho người khác sử dụng cam kết bằng chữ là cho người này như đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền.
Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng những ở bất kỳ dạng tín dụng nào cũng thể hiện hai mặt: người sở hữu một số tiền, hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định và đến thời hạn do hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là phần lời (lãi suất).
1.2. Các hình thức tín dụng chủ yếu của Ngân hàng Thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, các tín dụng rất đa dạng và phong phú. Sự phát triển về kinh tế đã tạo ra điều kiện xuất hiện các hình thức tín dụng mới. tuỳ từng trường hợp vào trình độ phát triển kinh tế và pháp luật của mỗi nước mà việc áp dụng các hình thức tín dụng khác nhau. Các Ngân hàng Thương mại luôn luôn tìm cách sáng tạo ra các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của quá trình sản xuất nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở rộng tín dụng thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận và phân tán, giảm thấp tỷ lệ rủi ro.
Theo tính chất đặc điểm của nghiệp vụ cho vay có một số hình thức tín dụng chủ yếu sau:
Tín dụng vãng lai: Là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng với nội dung đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều nhập vào bên có và toàn bộ chi tiêu đều trích từ bên nợ. Khi không còn số dư có khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng đã thoả thuận trong hợp đồng vay vốn với một mức “dư nợ” tối đa nào đó. Ngân hàng chỉ khống chế số dư nợ mà không khống chế doanh số cho vay.
Tín dụng chiết khấu: Trong các nước có nền kinh tế thị trường, kỳ phiếu thương mại được phát hành và lưu thông theo quy định của luật pháp. Người có kỳ phiếu đến hạn thanh toán, nếu cần tiền họ có thể đem bán cho Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng thương mại mua kỳ phiếu với giá bằng hiệu số mệnh giá ghi trên kỳ phiếu trừ đi lợi tức, hoa hồng và các khoản lãi suất khác. Ngân hàng trở thành chủ kỳ phiếu, đến hạn thanh toán xuất trình cho con nợ đòi thanh toán. Xét về bản chất kinh tế, mua kỳ phiếu thực chất là Ngân hàng cho người chủ kỳ phiếu vay tiền và chiết khấu kỳ phiếu là lãi suất tiền vay. Quan hệ mua bán kỳ phiếu với Ngân hàng được gọi là hình thức tín dụng chiết khấu. Như vậy, tín dụng chiết khấu là tín dụng ngắn hạn mà Ngân hàng chuyển tiền cho chủ kỳ phiếu dưới dạng mua kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán.
Tín dụng nhận trả: Là hình thức Ngân hàng trả tiền thay cho người phát hành kỳ phiếu, khi đến hạn trả, nếu người phát hành kỳ phiếu không có khả năng trả nợ. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu. Vì thế người phát hành kỳ phiếu phải mất một tỷ lệ hoa hồng “nhận trả” cho Ngân hàng. Ngân hàng không thu lãi suất về tín dụng nhận trả vì thông thường Ngân hàng không dùng vốn tự có vào tín dụng này.
Tín dụng cầm đồ: Là loại cho vay có thế chấp bằng bất động sản, tài sản cầm đồ chủ yếu là phải được Ngân hàng cất giữ, trường hợp cá biết có thể để ở kho chuyên dùng hay giao cho người vay giữ. Tài sản cầm đồ được đánh giá không phải bằng đúng toàn bộ giá trị của nó mà thường được đánh giá thấp hơn, để khi rủi ro có thể bán được ngay đủ bằng số nợ gốc và lãi. Tín dụng cầm đồ cho vay thời gian ngắn, mang tính chất thời vụ. Các động sản dùng để cầm đồ rất đa dạng: Chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn, hàng hoá, kim loại quý, sổ tiết kiệm…
Tín dụng trả nhiều lần: Tín dụng trả nhiều lần là loại cho vay mà điều kiện trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi thời hạn trả một lần. Loại tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay vừa kích thích được tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng.
Tín dụng bảo lãnh: Là loại cho vay phát sinh do Ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua (thuộc quyền bảo lãnh) không có khả năng thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay có thể là ngắn, trung hay dài hạn. Hình thức bảo lãnh của ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status