Tiểu luận Vai trò của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường - pdf 15

Download miễn phí Tiểu luận Vai trò của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường



Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội. Để thực hiện dược vai trò đó ,thì NHTW với tư cách là ngân hàng phát hành ,ngân hàng của các ngân hàng ,ngân hàng của chính phủ phải thực hiện được tốt vai trò thực thi chính sách tiền tệ.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

i lượng tiền tệ cân đối với mức tăng tôngr sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ đúng đắn phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng, làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ không phải chỉ khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được xác định theo hai hướng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được dùng trong những thời kỳ có lạm phát cao; với mục đích là làm giảm lượng tiền cung ứng. Từ đó dẫn tới việc lãi suất tăng, tiêu dùng và đầu tư giảm, xuất khẩu vòng giảm, GNP giảm, việc làm giảm thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ được dùng khi nền kinh tế suy thoái. Mục đích là tăng lượng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu dùng và đầu tư tăng, xuất khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng, thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô nên những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô.
NHTW thường đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ của mình. Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị trường ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách tiền tệ nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những mục tiêu đó. Nếu những vấn đề đó chưa có thì chính sách tiền tệ phải luôn hướng tới chung.
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà hàng loạt mối quan hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế; giữa lợi ích chung (kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế) với lợi ích của các NHTM và tổ chức tín dụng giữa lợi ích người gửi tiền với nhà kinh doanh tiền tệ và người vay vốn. Chính vì vậy cần tìm đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian, những mục tiêu được coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc thiết lập càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo giữa mục tiêu trung gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải là mục tiêu mà NHTM bằng việc sử dụng những phương tiện hiện có, có thể kiểm soát được, giải quyết được.
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục tiêu về số lượng cung tiền, số lưọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu ổn định lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối lãi suất (hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi lượng cung ứng tiền tệ một khi lượng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên thực tế, NHTM thường muốn điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức cung ứng tiền.
(hình a)
Lượng tiền
M
MS
Md1
Md2
i1
i2
i
(hình b)
Lượng tiền
M1
M2
MS1
MS2
Md1
Md2
2
1
i
i
Từ việc xác định được mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của ngân hàng, nhờ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.
c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến lượng cung ứng tiền tệ, đó là:
+ Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ được tiến hành khi NHTW thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ số tiền) hay bán ra các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền) trên thị trường.
Ta cũng thấy rằng có rất ít khác biệt khi NHTW giao dịch trực tiếp với các ngân hàng khác hay với các tổ chức công cộng phi ngân hàng. Các ngân hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc để đề phòng sự bất định về lãi suất trên thị trường tiền tệ. Mặt khác, các ngân hàng phải có một lượng chứng khoán đáng kể khi cần vốn khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần đó đi. Nếu NHTW bán chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống chứng khoán cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ giảm ngay lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân sẽ trả lại bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho dự trữ tiền mặt của ngân hàng lại bị giảm sút. Như vậy là, cả hai trường hợp bằng nghiệp vụ thị trường mở trong lĩnh vực chứng khoán tài chính NHTW làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lượng cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trường mở năng động: NHTW chủ động tiến hành các việc mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW, do đó làm thay đổi cơ số tiền và thay đổi lượng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động được tiến hành khi cần thiết phải đối phó lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hưởng đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát được hoàn toàn thị trường tự do. Nghiệp vụ thị trường tự do linh hoạt và chính xác có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm sẩy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường tự do, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường tự do.
Nghiệp vụ thị trường tự do có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của nghiệp vụ thị trường tự do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dụng đó đối với cơ số tiền tệ.
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ muốn vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến lượng dự trữ của NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu được một khoản cho vay biên (có tính đến cả những nguy cơ và chi phí có kiên quan nếu có dòng tiền mặt rút ra bất thình lình và lớn) với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu cao hơn làm tăng phí vay từ NHTW, như vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn, và từ đó làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất chiết khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân hàng và khối lượng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung ứng tiền tệ.
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản cho vay chiết khấu được cung cáp cho các ngân hàng được gọi là cửa sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) như phần trên đã trình bày hay bằn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status