Định hướng phát triển Xuất - Nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 - pdf 15

Download miễn phí Đề tài Định hướng phát triển Xuất - Nhập khẩu thời kỳ 2001-2010



Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Đánh giá tổng quát hoạt động xuất - nhập khẩu thời kỳ 1991-2000 2
I. Những thành tựu đã đạt được 2
II. Những vấn đề tồn tại 3
Chương II: Định hướng phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 5
I. Tình hình trong nước, thế giới và những thuận lợi, khó khăn đặt ra cho hoạt động xuất nhập khẩu 5
1. Về thuận lợi: 6
2. Về khó khăn, thách thức: 6
II. Mục tiêu và quan điểm phát triển xuất - nhập khẩu 6
III. Các chỉ tiêu cụ thể 9
1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng 9
2. Về cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ 10
3. Về thị trường xuất - nhập khẩu 20
Chương III: Hệ thống các chính sách và biện pháp hỗ trợ để thực hiện định hướng phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010 25
I. Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu hàng hóa - dịch vụ 25
1. Về hàng hóa 25
2. Về dịch vụ 26
II. Các giải pháp về thị trường 27
III. Hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách xuất - nhập khẩu 29
IV. Về hội nhập quốc tế 30
V. Về đào tạo cán bộ 31
VI. Tổ chức thực hiện 32
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (Arabica), tự tổ chức hay thu hót đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng về giá cả sẽ khó ổn định.
Với hai mặt hàng quan trọng còn lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm (năm 2000, nhu cầu thế giới là khoảng 7 triệu tấn), giá cả có xu hướng xuống thấp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1, 3 triệu tấn/năm. Ta có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.
Về thịt, hiện nay sản lượng của nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0, 7% của thế giới), chất lượng còn xa so với nhu cầu trên thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới cách chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, hiện đại. Thị trường định hướng trước mắt là Hồng Kông, Nga, về lâu dài là Singapore và Nhật Bản.
Ngoài ra, một loạt sản phẩm còn có thể phát triển để hay thay thế nhập khẩu hay góp phần xuất khẩu như cây họ đậu, cây có dầu, tơ tằm, bông...
Đối với toàn bộ nhóm nông thủy sản cần rất chú trọng khâu cải tạo giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể đưa thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
Nhìn chung lại, kim ngạch của nhóm nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10, 35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là các mặt hàng chế biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian 10 năm tới.
2.1.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo
Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu.
Hạt nhân của nhóm, cho tới năm 2010, vẫn sẽ là hai mặt hàng dệt may và giầy dép, là những lĩnh vực có thể thu hót nhiều lao động. Kim ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7, 5 tỷ USD. Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/năm. Với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ vừa ký kết thì mục tiêu tăng trưởng trên là khả thi. Hướng phát triển cơ bản của hai ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung Đông và châu Đại Dương, ổn định và tăng thị phần trên các thị trường quen thuộc như EU, Nhật Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trường phi quota, chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hóa trên cơ sở tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín, chuyển mạnh sang bán FOB, thu hót mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... để tăng cường năng lực thâm nhập trở lại các thị trường này và đi vào các thị trường khác. Chính sách thương mại của Nhà nước, mà cụ thể là chính sách thuế, chính sách thị trường, cần hỗ trợ đắc lực cho tiến trình này.
Do mục tiêu kim ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo vào năm 2010 là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và giày dép cần nỗ lực tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới.
Trước mắt, chủ yếu dùa trên cơ cấu đầu tư và thực tiễn xuất khẩu trong những năm qua cũng như thị trường quốc tế, có thể dự báo những mặt hàng như:
* Thủ công mỹ nghệ: Kim ngạch hiện nay đã đạt xấp xỉ 200 triệu USD. Đây là ngành hàng mà chúng ta còn nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khơi dậy tiềm năng thì có thể nâng kim ngạch lên 800 triệu USD vào năm 2005 và 1, 5 tỷ USD vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trường định hướng là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại Dương cũng là thị trường tiềm tàng, cần nỗ lực phát triển.
* Thực phẩm chế biến: Kim ngạch hiện nay mới đạt 100 triệu USD, tập trung chủ yếu vào những mặt hàng không đòi hỏi nhiều về công nghệ như bánh kẹo, sữa, mú ăn liền, phở ăn liền, bột ngọt, dầu thực vật... Tiềm năng phát triển của ngành hàng này còn khá lớn bởi ở một số nước có nhu cầu, chưa kể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá đông. Dự báo tới năm 2005 kim ngạch xuất khẩu có khả năng vượt 200 triệu USD và tới năm 2010 đạt 700 triệu USD với thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Australia và Hoa Kỳ. Trong nhóm này, cần hết sức chú trọng mặt hàng dầu thực vật bởi nước ta là nước có tiềm năng về cây có dầu (dừa, đậu nành, vừng, lạc... ). Nhà nước cần quy hoạch lại các vùng trồng cây có dầu để tập trung nguồn nguyên liệu đủ dùng cho các nhà máy chế biến, hạn chế dần lượng dầu nguyên liệu nhập khẩu. Trung Quốc và Trung Đông là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với mặt hàng này.
* Sản phẩm gỗ: Với thế mạnh về nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng phát triển ở nước ta. Ngành còn có một thuận lợi nữa là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8% trong suốt thời gian từ 1994 đến 1998). Sau khi chuyển hướng sang sử dụng nguyên liệu nhập, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của ta đang hồi phục dần. Dự kiến đến năm 2005 có thể đạt 600 triệu USD và tới năm 2010 đạt 1, 2 tỷ USD. Để phát triển ngành này, Việt Nam cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu trồng rừng và đơn giản hóa thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.
* Hóa phẩm tiêu dùng: Kim ngạch hàng năm đã đạt xấp xỉ 30 triệu USD. Thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc, Campuchia, Irắc và một số nước đang phát triển. Một số lượng nhỏ đã đư...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status