Triết học Việt Nam (tổng quan về lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam) - pdf 16

Download miễn phí Triết học Việt Nam (tổng quan về lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam)



Tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc, là sự thu nhỏ của triết học
Ấn Độ và Trung Quốc. Nhiều người cho rằng, dân tộc Việt Nam có tính thực
dụng cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù
hợp với mỡnh, chứ khụng cỳ sự sỏng tạo: "Khụng cú sỏng tạo, chỉ cú vay
mượn; chỉ có áp dụng, chỉ có thích nghi. Đó là sự thực của lịch sử tư tưởng
chính thống Đại Việt" . Rồi ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng
nhẹ nhàng mà không sâu. Rằng, người Việt đại thể là thông minh, nhưng
không mấy ai có trí tuệ lỗi lạc phi thường, có chăng thỡ chỉ giàu khả năng nghệ
thuậthơn khoa học, giàu trực giác hơn luận lý, úc sỏng tạo ớt, nhưng bắt
chước, thích ứng, dung hũa thỡ tài , v.v. Tựu trung lại, quan điểm này phủ
nhận tư tưởng triết học bản địa.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

TRIẾT HỌC VIỆT NAM (TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC VIỆT NAM)
Đối tượng của tư tưởng triết học Việt Nam
Trước khi triết học Mác - Lênin du nhập vào Việt Nam, nếu theo tiêu chí của
một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết và trường phỏi thỡ Việt Nam
khụng cú một nền triết học nào. Suốt mấy thập kỷ qua, quan niệm này chiếm
ưu thế trong đánh giá hoạt động văn hóa tinh thần của đất nước. Tuy nhiên,
một số học giả, một số nhà nghiờn cứu vẫn khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam
có một nền văn hiến riờng, trong đó chứa đựng một sắc thái tư tưởng không
giống với các nền triết học và văn minh lớn lân cận. Sự nghiên cứu tư tưởng dân
tộc khiến việc khẳng định Việt Nam có tư tưởng triết học dần dần trở nên tự tin
hơn. Đến nay, có xu hướng cũn cho rằng, chúng ta không chỉ có những tư tưởng
triết học, mà cũn cú cả những học thuyết triết học theo đúng nghĩa của nó.
Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương Tây thường gắn với những
thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Cũn triết học phương
Đông thường gắn với tôn giáo (Ấn Độ), với chính trị - xó hội, đạo đức (Trung
Quốc), những tư tưởng triết học Việt Nam thỡ gắn liền với cụng cuộc bảo vệ và
xõy dựng đất nước. Nói Việt Nam có tư tưởng triết học vỡ Việt Nam được xem
là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, ngoài ra cũn dựa trờn
một số căn cứ sau:
Thứ nhất, Việt Nam có một khả năng tư duy khái quát phát triển rất sớm, biết
rút ra những cái chung từ việc quan sát các hiện tượng tự nhiên, xó hội và con
người, nghĩa là biết tỡm ra quy luật chung. Thờm nữa, Việt Nam biết lấy quỏ
khứ để soi vào hiện tại, căn cứ vào hiện tại để định hướng cho tương lai; biết
xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động phát triển...
Thứ hai, Việt Nam cú nhiều chiến cụng oanh liệt trong sự nghiệp đấu tranh
dựng nước và giữ nước, sau mỗi chiến công ấy đều có sự tổng kết để nâng lên
thành lý luận. Chẳng hạn, tổng kết từ thời đại nọ sang thời đại kia, tổng kết từ
thời loạn lạc, chiến tranh sang hũa bỡnh, tổng kết sau khi khắc phục những
thiờn tai... Đó là những khái quát ít nhiều có tính triết học.
Thứ ba, Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa thế giới: tiếp biến
với nền văn hóa vĩ đại của Trung Hoa khi phong kiến phương Bắc vào xâm chiếm
Việt Nam; tiếp biến với văn hóa Ấn Độ đồ sộ một phần do đạo Phật từ Ấn Độ du
nhập sang, hay tiếp nhận đạo Kitô giáo qua cuộc xâm lược của thực dân phương
Tây.
Những tư tưởng triết học trên đây đó được Việt Nam tiếp nhận một cách có
chọn lọc, sau đó bản địa hóa. Như vậy, đối tượng của lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam là:
- Nghiên cứu sự phát triển tư tưởng triết học bản địa qua hoạt động sống của con
người: sản xuất, đấu tranh xó hội, đấu tranh với tự nhiên.
- Nghiờn cứu quỏ trỡnh nội địa hóa những tư tưởng triết học bên ngoài qua sự
giao lưu, tiếp biến với văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông.
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,
phạm vi nghiên cứu gồm 4 mặt:
1. Tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa con người và
tự nhiên, tinh thần và vật chất (phương Tây gọi là vấn đề cơ bản của triết học).
Chẳng hạn, những vấn đề như quan hệ giữa Trời và người, hỡnh và thần, giữa
tõm và vật, hữu và vụ, lý và khớ,...
2. Phương pháp tư duy biện chứng và tư duy siêu hỡnh: như quan hệ giữa tĩnh
(siêu hỡnh) và động (biện chứng), thường (bất biến) và vô thường (không bất
biến), thuận lẽ trời với lũng người,...
3. Những vấn đề triết học xó hội, như đường lối trị nước của các triều đại, mối
quan hệ giữa trị và loạn, giữa vua và quan (quân thần), giữa vua với dân, vấn đề
sử dụng nhân tài,...
4. Những vấn đề triết học nhân sinh, như bản chất con người, sự thành bại
trong việc đào tạo, giáo dục con người, đạo làm người, các chuẩn mực đạo
đức,...
Đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam
a. Những quan điểm khác nhau về tư tưởng triết học Việt Nam
Tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc, là sự thu nhỏ của triết học
Ấn Độ và Trung Quốc. Nhiều người cho rằng, dân tộc Việt Nam có tính thực
dụng cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù
hợp với mỡnh, chứ khụng cỳ sự sỏng tạo: "Khụng cú sỏng tạo, chỉ cú vay
mượn; chỉ có áp dụng, chỉ có thích nghi. Đó là sự thực của lịch sử tư tưởng
chính thống Đại Việt" . Rồi ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng
nhẹ nhàng mà không sâu. Rằng, người Việt đại thể là thông minh, nhưng
không mấy ai có trí tuệ lỗi lạc phi thường, có chăng thỡ chỉ giàu khả năng nghệ
thuật hơn khoa học, giàu trực giác hơn luận lý, úc sỏng tạo ớt, nhưng bắt
chước, thích ứng, dung hũa thỡ tài , v.v.. Tựu trung lại, quan điểm này phủ
nhận tư tưởng triết học bản địa.
Quan điểm khác cho rằng, ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chung, chứ
không có lịch sử tư tưởng triết học. Nếu có tư tưởng triết học thỡ chỉ là những
triết lý, chứ không gọi là tư tưởng triết học. Xu hướng này tuyệt đối hóa tính
hệ thống của triết học. Trên thực tế, nhiều nhà tư tưởng của thế giới cổ đại
cũng chỉ đưa ra các câu châm ngôn, các triết lý nhõn sinh, khỏi quỏt vài nột,
một số hiện tượng nào đó của tự nhiên chứ không phải ai cũng xây dựng các hệ
thống tư tưởng, quan điểm hoàn chỉnh như các nhà triết học nổi danh hàng
đầu, tiêu biểu như Platôn, Arítxtốt...
Trờn thế giới, những quốc gia cú nền triết học phỏt triển thỡ việc tỡm ra những
đặc thù của nó là cần thiết. Ngay cả khi nó tồn tại dưới dạng triết học thỡ cũng
phải nờu lờn sự khỏc nhau giữa dõn tộc này với dõn tộc khỏc, vỡ dõn tộc nào
cũng cú cỏi gọi là tư tưởng triết học. Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết
học Việt Nam là rất cần thiết.
b. Một số đặc điểm tư tưởng triết học Việt Nam
1- Tư tưởng triết học Việt Nam gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước (triết học phương Tây gắn với những thành tựu của khoa học, đặc biệt là
khoa học tự nhiên). Do ảnh hưởng của cách sản xuất châu Á, nên ở
Việt Nam không có sự phát triển của khoa học tự nhiên, không có sự phát triển
thương mại (sĩ – nông – công - thương), không có tiền đề ra đời của chủ nghĩa
tư bản. Điều đó làm cho chế độ phong kiến kéo dài. Cuối cùng, thế giới quan
triết học, tư tưởng triết học Việt Nam luụn cú tớnh chất phong kiến.
Tư tưởng chủ đạo của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, những vấn đề
về chính trị, xó hội bao gồm hệ thống những quan điểm lý luận về dựng nước,
đánh giặc giữ nước, dân giàu nước mạnh. Phạm trù "nước", xét trên bỡnh diện
triết học, là những cộng đồng người, là dân tộc, ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status