Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế - pdf 16

Download miễn phí Luận văn Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế



MỤC LỤC
 
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của luận văn 5
7. Kết cấu luận văn 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CA DAO TỤC NGỮ 6
1.1. Sự hình thành của ca dao, tục ngữ 6
1.1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ 6
1.1.1.1. Ca dao 6
1.1.1.2. Tục ngữ 12
1.2. Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 20
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội của Thừa Thiên - Huế 20
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên 20
1.2.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội 22
1.2.2. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế - tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế - xã hội của Thừa Thiên - Huế 25
1.2.2.1. Về quê hương đất nước 25
1.2.2.2. Về tình cảm lứa đôi 32
1.2.2.3. Về hôn nhân, gia đình 35
1.2.2.4 .Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của cuộc sống 40
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRIẾT LÝ VỀ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ THỪA THIÊN - HUẾ 46
2.1. Triết lý về quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên 46
2.2. Triết lý về đời người và các quan hệ xã hội 53
2.3. Một số nhận xét ban đầu qua việc tìm hiểu triết lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 69
2.3.1. Những dấu hiệu của tư tưởng biện chứng trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 69
2.3.2. Tính mâu thuẫn và không nhất quán trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 76
2.3.3. Vấn đề kinh nghiệm trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế 79
2.3.4. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế - bộ phận cấu thành văn hóa Huế 82
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

của người chồng, và lòng không chung thủy của người chồng hay người vợ. Trong đời sống hôn nhân, để xây dựng hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải lo làm lụng, nhưng có những người chồng không lo làm ăn, mà say mê cờ bạc, dẫn đến khuynh gia bại sản, hôn nhân đổ vỡ:
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà
Sống trong cảnh gia đình, có người chồng “thay lòng đổi dạ” chạy theo duyên mới, quên sự thủy chung thì người vợ phải chịu cảnh số phận long đong.
Quan niệm hàm chứa trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế liên quan đến gia đình là quyền gia trưởng của chế độ phụ hệ trong quan hệ vợ chồng. Người chồng có vai trò chủ đạo về kinh tế và văn hóa cho nên dù vợ chồng có yêu thương yêu nhau như thế nào thì người vợ luôn luôn phục tùng chồng:
Con dại cái mang, chồng hoang vợ chịu
Với gia đình, họ hàng thì:
- Vợ chồng sống gởi nạc, thác gởi xương
- Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về
- Rể ăn ba đọi là rể thiệt thà, rể dựa cột nhà là rể thiên tinh
Hôn nhân, gia đình trong cộng đồng xã hội Thừa Thiên - Huế được phản ánh trong ca dao, tục ngữ với nhiều cung bậc và nhiều sắc thái khác nhau, nhưng trọng tâm của nó là vợ chồng thương yêu nhau và chung thủy với nhau. Đó là đức cao đẹp nhất của sự bền vững hạnh phúc hôn nhân gia đình.
1.2.2.4 .Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của cuộc sống
Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế nói riêng đều xuất phát trực tiếp từ lao động rồi trực tiếp phục vụ cho sản xuất và người lao động. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển, việc xem xét ảnh hưởng của tự nhiên, để rút ra những kinh nghiệm quý báu là một vấn đề cần thiết trong sản xuất nông nghiệp. Những kinh nghiệm đó có tính thống nhất và đa dạng là kết quả của tinh thần lao động sáng tạo, chứng minh nguồn gốc dân gian của khoa học trong lao động sản xuất. Đa số những kinh nghiệm về lao động sản xuất được đúc kết từ ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có mối tương quan với môi trường khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nắng, lụt bão nhiều, diễn biến thất thường, phức tạp nhằm mục đích phục vục cho sản xuất nông nghiệp.
Thừa Thiên - Huế là một địa phương có thời tiết khí hậu thất thường, mưa, gió, bão lụt thường xuyên xảy ra, mà các hiện tượng này thường được dự báo trước bởi sấm, chớp, mây, gió. Vì thế trong lao động sản xuất cư dân xứ Huế thường xuyên theo dõi các hiện tượng thời tiết khí hậu, rút ra những kinh nghiệm có tính chất thiên văn. Đặc biệt là cư dân ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang luôn theo dõi các tia chớp ở cửa Eo, vì mỗi lần có chớp là sắp có mưa to, bão lớn, lụt đến nóc nhà nhằm tránh những thiệt hại về tài sản và tính mạng:
- Chớp cửa Eo, nước trèo khu đĩ
- Sấm ngã Eo, bắt heo vô rọ
hay nhìn lên trên đỉnh núi Truồi, ngọn núi cao nhất thuộc huyện Phú Lộc có mây bao phủ thì ắt có mưa:
Núi Truồi đội mũ, âm phủ mặc áo tơi
Tục ngữ nói về lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân lao động. Đó là những kinh nghiệm lâu đời và có tính chất tập thể rút ra trong quá trình quan sát các hiện tượng tự nhiên, quá trình dùng sức người cải biến tự nhiên và quá trình xây dựng kỹ thuật sản xuất. Những kinh nghiệm ấy dần dần phổ biến rộng rãi và trở thành những tri thức khoa học về tự nhiên; chúng cũng thể hiện tinh thần sáng tạo, phản ánh một số nét chính điều kiện và cách lao động của ngươi dân Thừa Thiên - Huế, qua đó cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa con người với tự nhiên. Việc hiểu được giới tự nhiên giúp cho con người tránh được những thiệt hại do sự thay đổi thời tiết, khí hậu gây ra.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh nhiều sắc thái trong lao động sản xuất và mối quan hệ của con người với tự nhiên; phản ánh tập quán làm ăn lâu đời trong hoàn cảnh sản xuất nông nghiệp của người dân Huế với kỹ thuật sản xuất thô sơ. Từ những kinh nghiệm về thời tiết:
- Cu cu tắm thì ráo, trảo trảo tắm thì mưa
- Tháng bảy nước chảy lên bờ
- Mây kéo lên nguồn, nước tuôn ra bể
Đến những kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực lao động sản xuất, đặc biệt là trong việc cày bừa, trồng lúa, gieo mạ, trồng khoai:
Đất quen trồng mạ, đất lạ trồng khoai
Hay những kinh nghiệm về thời điểm trồng trọt:
Trồng sắn buổi mai, trồng khoai buổi chiều
Những kiến thức về chăn nuôi và đánh bắt, trong đó chủ yếu là kinh nghiệm chọn giống nuôi, phổ biến là chọn chó, mèo, heo, trâu, gà:
- Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể (chọn chó, mèo)
- Gà kiến mắn đẻ, lắm kẻ tìm mua
Gà nòi đẻ sưa nhưng mà tốt thịt (chọn gà đẻ)
- Chấm trán lọ đuôi, không ai nuôi cũng nậy (chọn lợn giống)
- Trâu đen ăn kỹ cày hay
Trâu bạc ăn nhón, lại day đường cày (chọn trâu cày)
Kinh nghiệm đi lưới:
Trời sương mù, nhiều cá thu cá nục
Bên cạnh bộ phận ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất, phục vụ sản xuất, còn có một bộ phận đáng kể ca dao, tục ngữ phục vụ chiến đấu, điển hình là phục vụ cho các phong trào cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bộ phận ca dao này do những người nông dân tham gia kháng chiến sáng tác, chủ yếu là số cán bộ tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở xã, huyện, nên có sắc thái, cung cách riêng. Hầu hết các cuộc vận động, các phong trào trong chống Pháp và chống Mỹ đều có ca dao cổ vũ. Một số phong trào lớn còn vang vọng trong ca dao như:
Phong trào ủng hộ tiền bạc cho Chính phủ và cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1949:
Ai có đồng đem ra ma đúc súng, đúc bom
Chị em mình ở nhà dù không có chi để nấu, thì trên tréc dưới om cũng đành
Phong trào diệt giặc dốt, giặc đói khởi đầu từ năm 1945 (kéo dài cho đến 1954):
Anh kia bộ dạng oai phong
Nếu không biết chữ, chớ hòng thương được em
Phong trào vận động không đi lính cho giặc, nếu đã đi thì bỏ ngũ trở về:
Anh đi lính “quốc gia” mà anh bị đốt
Anh đi lính “quốc gia” răng mẹ cha anh bị nhốt lao tù
Đèn kia sáng lắm, không phải đèn lu
Khuyên anh suy nghĩ, kẻo quân thù hại ta
Vận động giác ngộ cách mạng, tố cáo tội ác của giặc:
Khố rách như tua con mực
Áo tả tơi mảng ngược mảnh xuôi
Vì đâu cực khổ trọn đời
Vì chưng sưu thuế, vọt roi mấy tầng
Và tập trung hơn cả, là động viên toàn dân tham gia kháng chiến, trực tiếp cầm súng, hay vào các đoàn thể Cách mạng để bảo vệ quê hương:
Anh đi, sung vào đoàn cảm tử
Em ở nhà, vô đội phụ nữ cứu thương
Cuộc sống vô cùng phong phú và đa dạng. Vì vậy, bên cạnh những chủ đề đã nêu ở trên, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn dành không ít sự quan tâm đến các quan hệ liên quan đến sự sinh tồn của con người ở vùng đất nắng cháy, mưa dầm dề này.
Ca dao nhìn nhận, đánh giá con người với tư cách là một cá thể, tồn tại tự thân theo vòng đời, có quyền sống một cách tự nhiên:
Ai thương thì bỏ ngoài da
Cơm thương thì bỏ ruột già ruột non
Con người được xét qua những quy ước, những sự ràng buộc bởi các tục l
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status