Giảng dạy thơ đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học - pdf 16

Download miễn phí Luận văn Giảng dạy thơ đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học



Bài thơlà một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Nếu thời gian trong bài “Vọng
Lưsơn bộc bố” là ban ngày có ánh nắng mặt trời chiếu rọi thì thời gian trong “Tĩnh
dạtư” là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc, là nỗi suy tưtrong đêm trăng sáng.
Ba câu thơ đầu ngắn gọn hàm súc, miêu tảcảnh đêm thanh tĩnh. Ánh trăng
chan hòa, dịu hiền chiếu sáng trên bầu trời, mặt đất, vào tận phòng cho biết đêm sâu,
thanh bình yên tĩnh nên gió trăng mặc sức đến chơi. Nhận thấy ánh trăng rọi sáng đầu
giường, rõ ràng là người không ngủ. Trước ánh sáng lung linh vằng vặc ngỡrằng
“mặt đất phủsương”, sựliên tưởng phong phú đã tạo nên một hình ảnh thơtuyệt đẹp.
Một tâm hồn đa cảm dạt dào cảm xúc nhưLí Bạch làm sao có thểkhông rung động
trước vẻlộng lẫy hấp dẫn của chịHằng? Động tác “cử đầu” chỉtrong khoảnh khắc
cho thấy trăng ở đây còn là biểu tượng của một mảnh hồn cô đơn mơtìm tâm hồn tri
âm tri kỷ, thấy trăng nhưthấy “cốtri”, thấy trăng mà sinh ra nỗi nhớ, nỗi nhớluôn
tiềm ẩn trong tâm thức. Đó là tâm tình hết sức tựnhiên.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ải qua bốn đời vua, nội bộ nhà Đường rất biến động,
nhưng Hạ Tri Chương luôn được quý trọng, không hề bị biếm trích. Đây là điều rất
hiếm đối với quan lại – thi sĩ thời phong kiến. Năm Thiên Bảo thứ ba (744), ông xin
cáo lão về quê quy ẩn ở Kính Hồ, không lâu sau thì mắc bệnh qua đời, thọ tám mươi
sáu tuổi.
● Hồi hương ngẫu thư
Xa quê, nhớ quê, buồn rầu xa xứ là những đề tài quen thuộc trong thơ cổ -
trung đại phương Đông. Nhưng mỗi nhà thơ trong hoàn cảnh riêng lại có những cách
thể hiện riêng độc đáo, không trùng lặp. Còn gì vui mừng xốn xang hơn khi xa quê
lâu năm nay mới có dịp về thăm lại nơi mình đã từng chôn nhau cắt rốn? Rồi khi gặp
lại có những chuyện bất ngờ không sao nói lên lời. Hạ Tri Chương trong một lần về
thăm quê sau năm mươi năm xa cách cũng gặp một chuyện nao lòng như thế trong
bài Hồi hương ngẫu thư.
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch nghĩa:
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi nhưng tóc mai đã rụng.
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con gặp, lạ lùng sao,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Bản dịch thứ hai:
Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười hỏi: Khách từ đâu đến làng?
(Trần Trọng San dịch)
Chữ ngẫu trong nhan đề ‘‘Hồi hương ngẫu thư’’ cho thấy nhà thơ không hề cố
ý làm thơ, cũng không hề nhắc đến năm mươi năm làm quan ở chốn cung đình,
chứng tỏ tất cả tâm tình đặt ở cái đích hồi hương. Bài thơ là một bức tranh sinh hoạt
giản dị, hồn nhiên; lời thơ tự nhiên, bình dị, như giọng nói chân chất của quê nhà
không hề trau chuốt.
Điều đặc biệt, cái thâm thúy của bài thơ là ở các mối quan hệ.
Bài thơ chỉ có bốn câu. Ba câu trước mang hình thức tự đối, tức là mỗi câu đều
tách ra thành hai vế đối nội bộ với nhau trong một dòng thơ. Riêng câu thứ tư, lại đối
lập với ba câu trước:
Thiếu tiểu li gia >< lão đại hồi,
Hương âm vô cải >< mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến >< bất tương thức,
><
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Ở ba câu đầu, thể hiện tâm trạng bồi hồi xao xuyến của nhà thơ: Vừa vui vừa
buồn; nửa mừng nửa tủi. Đây là tâm trạng rất thực của con người bao năm xa cách
quê hương, giờ mới trở về. Dòng cảm xúc ấy như những ngọn triều tình cảm, những
đợt sóng lòng, buồn vui, mừng tủi cứ thế hòa quyện, không tự chủ được. Đọc câu thơ,
ta như hình dung thấy được bước chân hấp tấp, lập cập, líu ríu tay bắt mặt mừng,
nước mắt rơi xuống ướt cả nụ cười trên môi. Không kìm nén được, cụ già tám mươi
sáu tuổi ấy bỗng hóa trẻ thơ không điều khiển được cảm xúc của mình. Cũng đúng
thôi, đã bao nhiêu năm ra vào chốn lầu son gác tía, vinh hoa phú quý đã từng, dẫu giờ
đây đã là ông già đầu tóc bạc phơ nhưng vẫn là đứa con của quê hương với “giọng
quê không đổi” – lòng không thay đổi, vẫn nhớ quê hương dù thời gian có đổi.
“Giọng quê không đổi” cần được hiểu cả theo nghĩa rộng, nghĩa bóng. Đó là
tấm lòng không đổi, trách nhiệm với làng quê không đổi... Tâm tư khắc khoải, không
biết quê hương có còn nhớ mình chăng?
Gặp gỡ trẻ thơ, niềm vui khôn xiết (nhi đồng tương kiến), nhưng trẻ thơ lại
chẳng biết ông (bất tương thức)! Đột ngột, ngỡ ngàng và hụt hẫng biết bao! Không
thể trách chúng được. Ngày ra đi, chúng và ngay cả cha mẹ chúng cũng chưa ra đời,
chúng không biết và thực ra nhà thơ cũng không biết đó là con cái nhà ai. Mạch thơ
đến đây bỗng chững lại.
“Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?”
Câu này tách ra, đối lập với ba câu trên. Tâm trạng ông lão thì náo nức... đầy
vẻ vồ vập, mà bọn trẻ lại xa lạ. Thái độ xa lạ với câu hỏi càng xa lạ hơn của bọn trẻ
đối lập hoàn toàn với tâm trạng của nhà thơ. Trước câu hỏi vô tư, thái độ ngoan
ngoãn thân thiện của trẻ thơ, ẩn dấu nỗi buồn thấm thía của tác giả. Còn gì buồn hơn
khi trở về nhà mình, quê mình lại trở thành khách lạ. Vì sao bài thơ không nhắc đến
những người lớn trong làng? Đó mới là chỗ trống đáng suy nghĩ trong thơ văn. Nhà
thơ chỉ mượn trẻ con để trách người lớn thờ ơ lãnh đạm với ông mà thôi. Người làng
quê thường biết ơn những người trực tiếp đem lợi ích cho làng, ai biết đâu cái ông
quan ở triều đình đến già mới về!
Không hề nói về tình cảm mà tình cứ hiện ra phập phồng xốn xang trên từng
câu, từng chữ. Trở về nơi chôn nhau cắt rốn mà được xem là khách, sự hớn hở vui
mừng đón khách của trẻ bao nhiêu thì nỗi lòng của nhà thơ càng tan nát bấy nhiêu.
Tình huống bất ngờ ấy đã tạo nên màu sắc đặc biệt của ý thơ, giọng thơ bi hài thấp
thoáng ẩn hiện sau lời tường thuật khách quan trầm tĩnh. Sinh động, chân thật biết
bao!
3.2.2. Vọng Lư Sơn bộc bố, Tĩnh dạ tư, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch)
● Lí Bạch
Lí Bạch sinh năm 701 mất năm 762, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh
ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê
ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa). Lí Bạch xuất thân
trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm. Lớn lên thích
giang hồ ngao du sơn thủy, năm 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, cùng năm người bạn
lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục
dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được tiến cử với Đường Minh Hoàng,
ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân
ngự dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết
làm bạn “vong niên” (bạn “quên tuổi tác”, không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn
Lí Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được
nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm
cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông
Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm
trăng mà chết. Người đời gọi ông là “Thi tiên” (ông tiên trong làng thơ), “Tửu trung
tiên” (ông tiên trong làng rượu). Thơ Lí Bạch hiện nay còn khoảng 1.800 bài.
Qua thơ ca ông, có thể thấy quan niệm làm thơ của ông là theo phương châm
“kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”, ông ra sức học tập Hán nhạc phủ. Vì
quán triệt phương châm kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân nên ông đạt được
những cống hiến trong thực tiễn sáng tác.
Tư tưởng Nho gia và Đạo gia đều tác động vào ông, nhưng tư tưởng Đạo gia
sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng đóng góp phần hình thành phong
cách đặc biệt c
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status