Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam - pdf 17

Download miễn phí Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam



MỤC LỤC
 
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT 2
VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 2
1. Khái quát chung về hoạt động nhượng quyền thương mại 2
1.1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới 2
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại 4
1.2.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại 4
1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại 6
1.3. Đánh giá về mô hình kinh doanh theo cách NQTM 8
1.3.1. Đối với BNQ 8
1.3.2. Đối với BNhQ 11
1.3.3. Đối với nền kinh tế thị trường 14
2. Khái quát về pháp luật nhượng quyền thương mại 16
2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về NQTM 16
2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về NQTM và PLCT 17
CHƯƠNG II 21
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH 21
1. Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật Cạnh tranh ở một số nước trên thế giới 21
1.1. NQTM dưới góc độ PLCT của Liên minh Châu Âu EU 23
1.2. NQTM dưới góc độ PLCT ở Mỹ 29
2. Thực trạng pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật Cạnh tranh ở Việt Nam 33
2.1. Khái lược sự hình thành và phát triển của PLCT ở Việt Nam 33
2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam 35
2.2.1. Đối với các TTHCCT 35
2.2.2. Đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền 42
CHƯƠNG III 47
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI 47
PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM 47
1. Quan điểm đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh 47
1.1. Tình hình thực tế 47
1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT 49
2. Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam 50
2.1. Những giải pháp về phía Nhà nước 50
2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về NQTM và PLCT 51
2.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy thực thi pháp luật về NQTM và PLCT 55
2.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về NQTM cũng như PLCT 57
2.3. Những giải pháp đối với các bên tham gia hợp đồng NQTM 58
2.3.1. Tìm hiểu kỹ pháp luật về NQTM, PLCT trước khi ký kết hợp đồng 58
2.3.2. Thành lập hiệp hội về NQTM của Việt Nam 59
KẾT LUẬN 62
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 63
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ụ không được chuyển giao cửa hiệu cho một bên thứ ba khác mà không có sự đồng ý trước của BNQ cũng có mục đích là hạn chế các đối thủ cạnh tranh không được hưởng lợi một cách gián tiếp từ những bí quyết và sự hỗ trợ do BNQ cung cấp và; (ii) Thứ hai, BNQ phải có khả năng thực hiện các biện pháp cần thiết để duy trì hiện diện và uy tín thương mại của mạng lưới mang tên thương mại và biểu tượng của mình. Từ đó, suy ra là những quy định xác lập các biện pháp quản lý cần thiết để đạt được mục tiêu bảo đảm tính bền vững của hệ thống NQTM và uy tín của thương hiệu là không tạo nên các HCCT theo quy định tại Điều 85(1).
Suy luận trên cũng được áp dụng đối với nghĩa vụ của BNhQ là chỉ được bán hàng hoá thuộc phạm vi của hợp đồng trên các khu vực được quy định và phải trang trí địa điểm bán hàng theo chỉ dẫn của BNQ. Các yêu cầu tương tự cũng được áp dụng đối với việc lựa chọn địa điểm đặt cửa hàng vì việc này cũng có thể ảnh hưởng tới danh tiếng của hệ thống nhượng quyền. Vì vậy cũng dễ hiểu tại sao BNhQ không thể chuyển cửa hiệu của chính mình sang một địa điểm khác mà không có sự đồng ý trước của BNQ. Việc cấm không cho BNhQ chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng NQTM mà không được sự chấp thuận của BNQ có mục đích là đảm bảo BNQ có thể tự do lựa chọn BNhQ theo những tiêu chuẩn năng lực cần thiết để thiết lập và duy trì danh tiếng của hệ thống nhượng quyền.
Bằng cách quy định BNQ có quyền kiểm soát việc lựa chọn hàng để bán của BNhQ, công chúng tiêu dùng sẽ được đảm bảo rằng họ có thể mua được hàng hoá có cùng chất lượng tại bất kì cửa hàng nhượng quyền nào. Trong một số trường hợp, đặc biệt trong lĩnh vực thời trang, và khi số lượng các cửa hàng nhượng quyền là quá lớn, việc quy định một tiêu chuẩn, quy cách cụ thể cho sản phẩm nhiều lúc là không khả thi vì không thể kiểm tra được (hay quá tốn chi phí để kiểm tra) tất cả mọi tuân thủ. Trong những trường hợp như vậy, một quy định đòi hỏi BNhQ chỉ bán các sản phẩm được cung cấp bởi BNQ hay bởi các nhà cung cấp khác do BNQ lựa chọn (chỉ định) có thể được coi là cần thiết để đảm bảo uy tín của hệ thống. Hơn nữa, một quy định như vậy có thể không hạn chế việc mua bán sản phẩm giữa các BNhQ khác nhau.
Mặt khác, cũng cần nhấn mạnh rằng một số quy định HCCT như vậy giữa các thành viên của cùng một hệ thống NQTM còn hơn cả cần thiết để bảo vệ bí mật kinh doanh được chuyển giao hay để duy trì hình ảnh và danh tiếng của hệ thống. Điều này đúng với các quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và những BNhQ hay giữa các BNhQ với nhau, hay hạn chế các BNhQ không được tham gia vào cạnh tranh về giá cả với những BNhQ khác.
Liên quan tới vấn đề này, sự quan tâm của Toà án liên bang tập trung vào quy định về nghĩa vụ của BNhQ chỉ được bán hàng hoá/cung cấp dịch vụ trong phạm vi của hợp đồng NQTM trên các khu vực lãnh thổ được ghi trong hợp đồng. Quy định này không cho phép BNhQ được mở một cửa hàng thứ hai. Tác động của quy định này sẽ trở nên rõ ràng nếu nó được xem xét cùng với nghĩa vụ của BNQ phải đảm bảo rằng BNhQ có toàn quyền đối với tên thương mại và biểu tượng của BNQ trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Để đáp ứng được nghĩa vụ này, BNQ không những không được phép tự thiết lập một cửa hàng khác của mình trên lãnh thổ đó, mà còn phải quy định những BNhQ khác cam kết không mở một cửa hàng thứ hai ngoài phạm vi lãnh thổ dành cho họ. Tổng hợp các quy định này dẫn tới một kết quả là sự phân chia thị trường giữa BNQ và các BNhQ và giữa các BNhQ với nhau và do đó HCCT trong phạm vi các thành viên của hệ thống NQTM. Theo án lệ ngày 13/07/1966 (về các vụ kiện số 56 và 58/64 giữa Consten và Grundig của Uỷ ban Châu Âu, ECR 299 ECR), sự hạn chế như vậy có thể tạo thành HCCT theo Điều 85(1) nếu nó liên quan tới một tên hay biểu tượng thương mại đã trở nên nổi tiếng. Tất nhiên một khả năng có thể xảy ra là một BNhQ sẽ không chịu rủi ro tham gia vào hệ thống NQTM, đầu tư vốn và trả phí gia nhập tương đối cao, rồi cam kết thanh toán khoản phí nhượng quyền hàng năm rất lớn, trừ phi anh ta có hi vọng rằng với mức độ bảo hộ nhất định đối với cạnh tranh từ phía BNQ và các BNhQ khác trong hệ thống rằng công việc kinh doanh của anh ta sẽ có lãi. Tuy nhiên, lập luận này chỉ phù hợp khi xem xét hợp đồng NQTM theo các quy định tại Điều 85(3).
Mặc dù các quy định hạn chế BNhQ được tự do xác định mức giá riêng của mình gây HCCT nhưng điều này không xảy ra khi BNQ chỉ đơn thuần cung cấp cho BNhQ sự chỉ dẫn về giá cả, miễn là không có hiện tượng thông đồng giữa BNhQ và BNQ hay giữa các BNhQ với nhau về mức giá thực tế. Tại trường hợp
vụ án này, Toà án liên bang sẽ phải quyết định liệu đây có phải là trường hợp như vậy.
Cuối cùng, cần bổ sung thêm rằng hợp đồng NQTM phân phối hàng hoá có chứa những điều khoản phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ hay giữa các BNhQ với nhau trong mọi trường hợp sẽ đều được coi là tác động tới thương mại giữa các quốc gia thành viên mặc dù chúng được ký kết thông qua những cam kết được thiết lập trong phạm vi một quốc gia, miễn là chúng hạn chế người nhận chuyển nhượng không được thành lập cửa hiệu ở một quốc gia thành viên khác.
Trên cơ sở những lập luận trên, câu trả lời đối với câu hỏi được nêu ở trên sẽ là:
- Sự phù hợp của hợp đồng NQTM đối với Điều 85(1) phụ thuộc vào các quy định cụ thể trong hợp đồng đó cũng như hoàn cảnh kinh tế của nó.
- Những quy định tuyệt đối cần thiết nhằm đảm bảo rằng các bí quyết và sự hỗ trợ của Bên nhượng quyền không mang lại lợi ích cho các đối thủ cạnh tranh của anh ta và không được coi là HCCT theo Điều 85(1).
- Những quy định thiết lập nên sự kiểm soát chặt chẽ cần thiết để duy trì uy tín và danh tiếng của hệ thống NQTM được xác định bởi một tên hay biểu tượng chung không được coi là tạo ra HCCT theo Điều 85(1).
- Các quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ hay giữa các BNhQ với nhau được coi là HCCT theo Điều 85(1).
- Việc BNQ đưa ra các khuyến nghị về giá cho BNhQ không được coi là HCCT, miễn là không có hiện tượng thông đồng giữa BNQ và BNhQ hay giữa các BNhQ với nhau về mức giá thực tế. Bởi nó không ảnh hưởng đến quyền tự do ấn định giá của BNhQ, nên không vi phạm PLCT.
Như vậy, qua án lệ Pronuptia Toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đã khẳng định nghĩa vụ không cạnh tranh của BNhQ với BNQ là cần thiết, mà không hề vi phạm Điều 81(1) Hiệp định thành lập cộng đồng chung Châu Âu (TEC), tức ECJ chấp nhận các HCCT như: (i) cấm BNhQ mở cửa hàng giống hay tương tự ở trong khu vực mà BNhQ đó có thể cạnh tranh với một thành viên khác trong hệ thống các cửa hàng NQTM trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng NQTM và trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi hợp đồng đó kết thúc; (ii) cấm BNhQ chuyển giao cửa hàng NQTM cho một bên thứ ba khác mà không có sự đồng ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status