Một số vấn đề về trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam - pdf 17

Download miễn phí Tiểu luận Một số vấn đề về trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam



Của rơi: đồ rớt mất ắt có chủ nhặt được trong hạn năm ngày phải đưa đến cửa quan. Của nhà nước trả cho nhà nước, của tư nhân trả cho người đến nhận lấy 1/2 trả cho chủ còn 1/2 thưởng cho người nhặt được trong 30 ngày không ai đến nhận thi thuộc về người nhặt. Vàng bạc chôn giấu duới đất không kể của nhà nước hay tư nhân, đào được thì cho phép sử dụng không phải bảo quản. Đổ cổ, chung đỉnh, phù ấn là các những khác thường dân không có quyền sử dụng, phải nộp cho nhà nước và trách nhiệm đặt ra là như vậy, nếu không sẽ bị phạt, sau 30 ngày không nộp thì sử phạt 80 trượng, thu vật cho vào quan.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Một số vấn đề về trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến việt nam
Trong thời gian dài gần 400 năm ( 1428-1802), các nhà nước phong kiến nước ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Do tình hình chính trị xã hội ở từng triều đại và mỗi đời vua có những biến động, nên tình hình phát triển của pháp luật cũng có sự khác nhau. Hình thức pháp luật thế kỷ XV-XVIII rất đa dạng và phong phú. Nhưng pháp luật ở thời kỳ này hầu hết là của triều Lê hay phải mang danh nghĩa vua Lê, nhất là thời Hồng Đức đã góp phần quan trọng trong việc củng cố nhà nước và quốc gia Đại Việt.
Bộ Quốc triều hình luật là sự kết tinh và đỉnh cao của những thành tựu lập pháp thế kỷ XV-XVIII, là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam.
Thành tựu pháp luật điển hình của triều Nguyễn là bộ Hoàng Việt Luật lệ và các tập Hội điển. Hoàng Việt Luật lệ là một trong 2 bộ luật điển hình được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ dươí sự kiểm soát của Hoàng Đế.
Bộ Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Cách thức phân chia các quyển, mục căn cứ vào thẩm quyền chức năng của Lục bộ. Cấu trúc này gần giống bộ Đại Thanh Luật lệ
So với Quốc triều hình luật triều Lê, Hoàng Việt Luật lệ mang tính khái quát cao hơn, Việc chia quyển đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Các chế định về trách nhiệm dân sự pháp luật thời Lê (Quốc triều Hình luật) và pháp luật thời nhà Nguyễn (Hoàng Việt luật lệ)được quy định sơ sài và tản mạn. Các quy định này không phân biệt rõ trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Chế tài hình sự được quy định trước hết nhằm trừng phạt kẻ nào đã xâm phạm vào tài sản hay nhân thân của người khác, ngoài hình phạt kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân về thiệt hại xảy ra.
Trong chế độ phong kiến ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản là tài sản chính trong gia đình. Bởi vậy, ở Bộ luật Hồng Đức ruộng đất cũng là đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực dân sự. Nó được thể hiện qua hình thức sở hữu và hợp đồng. Quốc Triều hình luật đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong chế độ phong kiến. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước trong Bộ luật gọi là ruộng công, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (ruộng tư).
Vua là người đứng đầu là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất công có quyền ban cấp một phần ruộng đất công cho quý tộc quan lại để họ hưởng thuế. Còn tập thể làng xã có quyền phân phối ruộng công cho các gia đình cày cấy và phải có trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước. Trong bộ luật Hồng Đức quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được quy định dưới góc độ các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng ruộng công và xâm hại tới ruộng công qua đó bác bỏ quyền lợi của chủ sở hữu là nhà nước. Phong kiến bảo đảm nguồn thu ngân khố chủ yếu, góp phần giữ gìn trật tự trị an trong làng xã. Ví dụ:
- Người được bán cấp hay người cày cấy không được bán ruộng đất công (Điều 342)
- Không được chiếm ruộng đất công quá số hạn định (Điều 343)
- Không được nhận bậy ruộng đất công của người đã được giao (Điều 344)
- Cấm quan lại làm sai quy định phân cấp ruộng đất công (Điều 347)
- Trong hạt có nơi nào mà bị nạn lụt, nạn mưa đá, sâu keo, châu chấu, phá hoại lúa má, quan chủ ty đáng phải tâu thì không tâu hay tâu sai sự thật thì xử tội trương hay phạt. Quan kiểm tra không xét đúng sự thật thì biếm ba tư và bãi chức...(Điều 349)
- Ruộng đất khấu phần thì không được bán cho người khác hay chuyển riêng cho ai trái pháp luật thì phải khép vào tội chiếm bán ruộng đất công (Điều 372)
- Như vậy rõ ràng ruộng đất công không phải là đối tượng hợp đồng mua bán. Trong khi đó ruộng đất tư cũng được bảo vệ một cách chắc chắn như:
- Cấm xâm lấn ruộng đất của người khác (Điều 357)
- Cấm nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất của lương dân (Điều 370)
- Cấm tá điền tranh chiếm ruộng đất của chủ (Điều 356)
- Cấm bán trộm ruộng đất của người khác (Điều 382)
- Cấm nô tỳ bán trộm ruộng đất của chủ (Điều 386)
- Cấm con cái bán trộm ruộng đất của cha mẹ (Điều 378)
- Không được ức hiếp để mua ruộng đất của người khác (Điều 353)
- Các quy định này cho ta thấy bộ luật đã điều chỉnh ba loại hợp đồng về ruộng đất.
- Hợp đồng mua bán ruộng đất nhà làm luật thời bấy giờ gọi là “bán đứt” và hợp đồng này chỉ hợp pháp khi đủ hai điều kiện
+ Ruộng đất đem bán là của mình
+ Không được ức hiếp để mua ruộng đất
- Hợp đồng cầm cố ruộng đất nhà làm luật thời bấy giờ gọi là “bán tạm” hay “ruộng cầm”. Người bán có quyền chuộc lại trong một thời gian mà đã thoả thuận hay theo luật định được ghi trong văn tự như chẳng hạn theo luật định là 30 năm và thời điểm chuộc là trước vụ để khỏi thiệt hại hoa màu lợi tức cho người sử dụng.
- Hợp đồng thuê mướn ruộng đất gọi là “cấy rẽ ruộng” hay “tá điền cấy nhờ ruộng” cho thuê ruộng đất là có thời hạn. Nếu vi phạm hợp đồng thuê mướn ruộng đất thì bị phạt rất nặng.
- Vấn đề trách nhiệm dân sự được thể hiện qua ba bản hợp đồng trên khá rõ và trật trẽ đã củng cố quyền nghĩa vụ của những người có liên quan.
- Trong khi đó ở bộ luật Hoàng Việt luật lệ có những quy định khá chi tiết rành mạch nội dung thể hiện trong phần luật bao gồm những vấn đề sau: hộ tịch, nhân khẩu, thuế điền sản, điền thế, kho tàng, chợ, cửa hàng. Tài sản mang ra giao dịch dân sự là điền sản, tiền lụa, vàng bạc, xe thuyền, đồ gia dụng, gia súc, gia cầm...
- Cũng như bộ Quốc Triều hình luật đối tượng điều chỉnh quan trọng nhất tài sản là ruộng đất vi tài sản giá trị nhất trong nền kinh tế trọng nông là ruộng đất.
- Sở hữu ruộng đất công và tư
- Sở hữu công thuộc nhà nước, thuộc làng xã.
- Sở hữu ruộng đất công và tư
+ Sở hữu công thuộc nhà nước là bất khả xâm phạm như cung điện, hoàng thành, thái miếu, lăng tẩm...
+ Sở hữu thuộc làng xã gồm công điền, công thổ, thần minh đình, hồ, ao...
- Lý trưởng có trách nhiệm thu thuế theo định kỳ. Vấn đề trách nhiệm dân sự cũng đặt ra nghiêm khắc nếu lý trưởng gian dối đều bị xử trượng truy thu nộp vào nhà nước. Nếu nơi nào thiên tai, hoạn nạn thất bát tra xét đúng sự thật cho miễn giảm thuế
+ Sở hữu tư tài sản tư hữu bao gồm nhà ở, ruộng đất, đồ thờ cúng, đồ gia dụng. Mọi sự xâm hại đến sở hữu tư đều bị trừng phạt. Trong việc xác định chủ tài sản theo điều 136 nổi bật nên như sau:
Của rơi: đồ rớt mất ắt có chủ nhặt được trong hạn năm ngày phải đưa đến cửa quan. Của nhà nước trả cho nhà nước, của tư nhân trả cho người đến nhận lấy 1/2 trả cho chủ còn 1/2 thưởng cho người nhặt được trong 30 ngày không ai đến nhận thi thuộc về người nhặt. Vàng bạc chôn giấu duới đất không kể của nhà nước hay tư nhân, đào được thì cho phép...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status