Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế - pdf 17

Download miễn phí Luận văn Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế



MỤC LỤC
 
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA VÙNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HÓA VÙNG ĐẦM PHÁ Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ 5
1.1. Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng 5
1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HÓA VÙNG ĐẦM PHÁ THỪA THIÊN - HUẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 33
2.1. Thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 33
2.2. Những vấn đề bức xúc đặt ra cần khắc phục để phát triển kinh tế hàng hóa ở vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 61
Chương 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HÓA VÙNG ĐẦM PHÁ THỪA THIÊN - HUẾ 71
3.1. Những quan điểm định hướng về phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 71
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 79
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 99
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

câu bị mất thị trường tiêu thụ ở Đông Âu và Liên Xô, thị trường mới ở Trung Quốc, Nhật, Đông Nam á chưa định hình chắc chắc. Do vậy Công ty rong biển - agar không hoạt động được.
Chế biến thủy sản trong nhân dân vẫn mang tính thủ công sản xuất các sản phẩm truyền thống. Đa số các hộ gia đình làm nghề chế biến thủy sản tập trung vào các mặt hàng tôm rảo bóc vỏ, nước mắm, ruốc quết, mực khô, tôm chua, mắm sò, mắm cá... Đó là những sản phẩm chế biến không đòi hỏi nhiều về vốn, kỹ thuật... là nghề truyền thống tạo việc làm và thu nhập ổn định, luôn có lãi cho gần 500 hộ gia đình vùng ven biển và đầm phá lãi từ 1,5 triệu đến 143 triệu đồng/năm (bình quân đạt 31,1 triệu đồng). Lao động làm nghề chế biến thủy sản hầu hết là phụ nữ. Thực trạng chế biến thủy sản vùng đầm phá cho thấy nghề chế biến thủy sản tồn tại và phát triển dựa trên nguồn nguyên liệu đặc thù của địa phương vùng đầm phá. Đây là hướng phát triển đúng đắn có tác dụng thúc đẩy sản xuất và nâng cao đời sống của ngư dân. Trong những năm gần đây số lượng sản phẩm thủy sản chế biến ngày càng tăng với tốc độ nhanh, năm 1995 là 1.328 tấn đến năm 2000 ước đạt 2.000 tấn, tốc độ tăng bình quân là 8,5%/năm. Cơ cấu các chủng loại mặt hàng ngày càng phong phú. Số lượng lao động được giải quyết ngày càng nhiều, giá trị kim ngạch xuất khẩu ngày càng cao. Trong cơ cấu mặt hàng thủy sản chế biến đã tạo ra những sản phẩm riêng có trên cơ sở điều kiện tự nhiên đặc thù của vùng.
Các ngành nghề hỗ trợ cho dân cư vùng đầm phá phát triển thủy sản, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống đó là: mạng lưới cơ sở công nghiệp, dịch vụ nghề cá, các ngành nghề khác. Mạng lưới cơ sở công nghiệp liên quan đến thủy sản xét về trình độ thiết bị và công nghệ đó là hệ thống cơ sở đóng tàu thuyền và sửa chữa nông cụ nhỏ bé, sản xuất thủ công là chủ yếu, năng lực sản xuất yếu, năng suất không cao. Hiện nay có 7 cơ sở đóng thuyền trong đó có 1 cơ sở nhà nước, 5 cơ sở của tư nhân và 1 cơ sở của hợp tác xã.
Các đơn vị chuyên dịch vụ kỹ thuật giống tôm, Trung tâm giống Thuận An bị lũ cuốn trôi chưa khôi phục lại được hiện còn 5 cơ sở trại tôm giống của công ty cung ứng giống và các trại giống khác của tư nhân, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, chưa có cơ sở sản xuất thức ăn cho tôm, cá nguồn thức ăn trên thị trường là của Thái Lan và Đà Nẵng. Cầu cảng bến cá phục vụ cho vùng đầm phá hầu như chưa có. Hệ thống thủy lợi đê bao và ao hồ, nuôi trồng thủy sản đã được cải tạo. Trong toàn vùng đã hình thành những tuyến đê bao ngăn mặn và phòng chống lũ lụt phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Nhưng những đê bao này không kiên cố do không có vốn, hay vốn của dự án thiếu nên không hoàn thành được các hạng mục.
- Thực trạng sử dụng tài nguyên đất đai
Vùng đầm phá có quan hệ mật thiết với gần 49.888 ha đồng bằng và 19.000 ha đất cát ven biển. Đây là vùng đất xấu cùng kiệt chất dinh dưỡng gồm các nhóm đất cát biển, đất mặn, đất chua, đất phù sa, đất úng nước, đất lầy và đất than bùn. Đất đồng bằng được sử dụng hết để trồng lúa và hoa màu nhưng cho năng suất thấp, đất cát trồng được 5.871 ha rừng, một số mô hình trồng rừng trên đất cát chưa được tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng.
Với diện tích 22.000 ha của mặt nước vùng đầm phá có 4.170 ha được quy hoạch là diện tích nuôi trồng thủy sản.
Bảng 6: Kết quả diện tích nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá
Đơn vị: ha
Thực hiện năm
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
- Diện tích nuôi tôm cua cá
830
1.102
1.162
1.296
1.626
1.850
- Diện tích trồng rong câu
360
437
437
Cộng tổng diện tích
1.190
1.539
1.599
1.296
1.626
1.850
Nguồn: [35], [36], [37], [38], [39], [40].
Qua số liệu cho thấy tổng diện tích nuôi trồng thủy sản tăng bình quân hàng năm là 13,7%. Đối với diện tích trồng rong câu đến năm 1997 không phát triển thêm, sang năm 1998 đến nay diện tích còn lại không đáng kể. Diện tích nuôi tôm, cua, cá tăng hàng năm, một số đất mặn, xấu cho năng suất lúa thấp được chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Do sự biến động của khí hậu mùa tôm năm 2000 xuất hiện tôm tự nhiên di cư đến vùng tôm nuôi, tôm này cho sản lượng thấp, tốn thức ăn..., một số điểm tôm chết do phát hiện sớm đã được xử lý kịp thời nên hầu hết diện tích nuôi trồng đều phát triển tốt.
Chương trình 773 của Thủ tướng chính phủ ngày 21/12/1994 về khai thác, sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước, đã được ngành thủy sản Thừa Thiên - Huế triển khai xây dựng "Dự án phát triển nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế" được Bộ Thủy sản và UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế phê duyệt năm 1995. Dự án đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng diện tích nuôi trồng trên các bãi triều theo hình thức quảng canh cải tiến, kết hợp với việc định cư các hộ thủy diện trên vùng đầm phá trong những năm vừa qua và cho những năm tiếp theo.
Bến cảng Thuận An là nơi ra vào của số lượng lớn tàu thuyền khai thác biển, đầm phá và tàu hàng hóa (nhưng chủ yếu là tàu biển vào). Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, kinh tế Thừa Thiên - Huế nói riêng đã làm cho cảng này trở nên quá tải. Dự án cảng Chân Mây có độ sâu từ 10m - 14m cho các tàu thuyền có trọng tải lớn ra vào đã được chính phủ phê duyệt tháng 7-2000. Dự kiến năm 2001 sẽ khởi công và năm 2003 sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các bến bãi khác dân cư tự cập bến neo đậu thuyền trên đầm phá để giao lưu mua bán thủy sản, chưa được đầu tư xây dựng.
- Thực trạng về sử dụng vốn và vốn đầu tư chuyển giao công nghệ
Vốn hiện nay đang là nguồn lực khan hiếm ở nước ta cũng như các nước đang phát triển. Vốn đầu tư tác động trực tiếp đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Vốn tạo điều kiện để đổi mới thiết bị, công nghệ, khai thác hợp lý và khôi phục tài nguyên môi trường sinh thái. Thực trạng nguồn vốn sử dụng cho đánh bắt và nuôi trồng thủy sản hiện nay ở vùng đầm phá còn gặp rất nhiều khó khăn. Dân vùng đầm phá rất cùng kiệt để chuyển đổi từ nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản, hay từ khai thác tự nhiên sang nuôi trồng thủy sản, vốn thiếu trầm trọng. Theo quy định của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn một hộ nuôi trồng thủy sản được vay 10 triệu đồng không phải thế chấp. Với mức này nếu sản xuất nông nghiệp có thể nói là nguồn vốn đầu tư lớn nhưng với nuôi trồng thủy sản mới chỉ đáp ứng được từ 20-30% nhu cầu của một hộ tùy theo diện tích nuôi trồng. Sự hỗ trợ của nhà nước còn rất nhỏ so với nhu cầu, từ năm 1995 - 2000 nguồn vốn hỗ trợ đạt 2,8%/năm.
Bảng 7: Nguồn vốn đầu tư của nhà nước so với nhu cầu nuôi trồng thủy sản
Đơn vị: triệu đồng
Thực hiện năm
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
- Nhu cầu vốn
29.050
38.570
40.670
45.360
56.910
64.750
- Tổng vốn đầu tư của nhà nước
695
1.331
1.361
983
873
2.486
- Tỷ lệ đầu tư (%)
2,4
3,4
3,3
2,2
...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status