Vấn đề về Đa dạng sinh học - pdf 18

Download miễn phí Tiểu luận Vấn đề về Đa dạng sinh học



- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài) được khai thác để làm vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, làm thuốc và xuất khẩu.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

í này được gọi là khí nhà kính do tác dụng của chúng rất giống với nhà kính – cho ánh sáng mặt trời đi qua nhưng giữ lại năng lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng lượng nhiệt. Nồng độ khí này càng đậm đặc bao nhiêu thì nhiệt lượng bị thu lại gần mặt đất nhiều bấy nhiêu và nhiệt độ trên bề mặt trái đất lại tăng lên bấy nhiêu.
Vai trò của khi nhà kính rất quan trọng vì nó giữ ấm bề mặt trái đất. Vấn đề quan trọng hiện nay là nồng độ của khí nhà kính tăng cùng với hoạt động của con người đến mức làm biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng trái đất nóng dần lên. Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm cho các khối băng ở các vùng cực tan ra. Do việc giải phóng một khối lượng nước lớn do băng tan, trong vòng 50 đến 100 năm tới mức nước biển dâng cao từ 0,2 đến 1,5 m. Mức nước biển dâng cao sẽ làm ngập lụt những vùng đất thấp những khu ĐNN ven bờ biển và nhiều thành phố lớn. Ngoài ra, mức nước biển dâng sẽ có khả năng gây hại đến nhiều loại san hô, nhất là những loại chỉ tồn tại ở một độ sâu nhất định nơi có ánh sáng và dòng chảy phù hợp.
Sự biến đổi khí hậu và nồng độ khí cacbonic trong khí quyển gia tăng sẽ có khả năng làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống mới (Bazzaz và Fajer, 1992).
2.1.6. Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Nguyên nhân này có vai trò tương đối lớn, nhất là đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng và ở các nước nghèo. Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện và không được những người có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Do cuộc sống khó khăn nên những người dân bản địa đã tiến hành khai thác bất hợp pháp các loài động thực vật cung cấp cho thị trường, song các cấp chính quyền dường như không làm được nhiều để hạn chế tình trạng trên, thậm chí do nguồn lợi kinh tế rất lớn nên một số nhà chức trách còn tiếp tay cho các hoạt động phi pháp. Bên cạnh đó chính sách di dân đã làm cho rất nhiều diện tích rừng bị mất đi nhanh chóng. Các chính sách kinh tế sai lầm đã làm giá cả gia tăng nhanh và đẩy một bộ phận người dân thuộc vùng sâu, vùng xa, những vùng có mức độ ĐDSH cao nhất, ngày càng trở nên khốn khó, để tự nuôi sống mình và gia đình họ đã khai thác triệt để nguồn lợi sinh học tại địa phương.
2. 2. Nguyên nhân trực tiếp:
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác.
+ Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các loài trở nên tuyệt chủng.
+ Khi dân số loài người tăng lên, nhu cầu sử dụng cũng tăng theo và họ đã sử dụng các phương tiện hữu hiệu hơn: Súng được thay cho giáo mác và cung tên; tàu đánh cá gắn máy thay cho thuyền buồm gỗ đánh bắt cá trên đại dương; cưa xăng thay cho chiếc rìu tay khi chặt gỗ. Phương tiện khai thác hiện đại đã làm cho các loài bị khai thác suy giảm và tuyệt chủng nhanh hơn. Việc khai thác quá mức của con người ước tính đã gây nguy cơ tuyệt chủng cho 1/3 số loài động vật có xương sống.
+ Trong những năm gần đây, việc khai thác quá mức được tăng lên khi thị trường thương mại được mở rộng, đã gây ra những hiểm họa không nhỏ đối với các loài sinh vật trong tự nhiên.
Ví dụ: Thị trường buôn bán áo lông thú phát triển ở nhiều quốc gia. Các món ăn đặc sản (thịt các loài động vật hoang dã), thú chơi cây cảnh, phong lan cũng gây những hiểm họa không nhỏ đối với các loài này trong tự nhiên.
Sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các vật cản tự nhiên như đại dương, các sa mạc, các dãy núi, các con sông. Ví dụ: Các loài động vật có vú ở Bắc Hoa Kỳ không thể vượt qua biển Thái Bình Dương để đến được Hawai. Do sự cách ly về địa lý nên quá trình tiến hoá được phân ly theo các chiều hướng khác nhau trên những khu vực chính của trái đất.
Con người đã làm thay đổi cơ bản cấu trúc này bằng việc vận chuyển, phát tán các loài trong toàn cầu. Con người đã mang vật nuôi từ chỗ này sang chỗ khác khi họ tạo lập khu định cư mới. Ngày nay, khi thị trường buôn bán phát triển, nhiều loài động thực vật được vận chuyển qua nhiều nước khác nhau.
Về cơ bản, những loài du nhập thường không phát triển được ở những nơi mà chúng được mang đến do điều kiện sống không phù hợp. Tuy nhiên, một tỉ lệ các loài nhất định có biên độ sinh thái rộng, chúng phát triển rất nhanh, vượt lên trên cả các loài bản địa, thậm chí chúng còn thay cả các loài bản địa. Các loài bản địa có thể bị tuyệt chủng do bị các loài du nhập chiếm hết không gian dinh dưỡng hay bị ăn thịt. Ví dụ có khoảng 4600 loài thực vật đã được du nhập vào quần đảo Hawai, nhiều gấp 3 lần các loài thực vật bản địa (St.John, 1973).
Lý do chính để các loài du nhập phát triển mạnh là chưa có thiên địch (ví dụ Thỏ nhập vào Châu Úc đã ăn hết cả các loài cỏ bản địa) và sau nữa là con người đã tạo những điều kiện thuận lợi cho các loài du nhập phát triển.
Sự lây lan của các dịch bệnh.
Sự lây nhiễm các sinh vật gây bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh nhu virus, vi khuẩn, nấm, các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cỡ lớn hơn như giun, sán. Các loại dịch bệnh có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quý hiếm. Vào năm 1987, quần thể cuối cùng của loài chồn chân đen (Mustela nigrepes) trong tự nhiên đã bị tiêu diệt bởi virut gây bệnh sốt ho của chó nhà và một số gia súc khác (Thorne and Wiliam, 1988).
Có 3 nguyên tắc về dịch bệnh học được ứng dụng rộng rãi trong việc nuôi dưỡng và quản lý các loài thú quý hiếm.
Thứ nhất, các loài được con người nuôi và động vật sống trong tự nhiên khi sống trong quần thể với mật độ cao sẽ có nguy cơ dễ mắc bệnh dịch hay bị nhiễm ký sinh trùng.
Thứ hai, tác hại gián tiếp do nơi cư trú bị phá huỷ là làm cho loài trở nên dễ mắc các bệnh dịch hơn. Khi các quần thể vật chủ sống tập trung trong một khu vực nhỏ hơn do nơi sinh sống của chúng bị phá huỷ, tại đây chất lượng môi trường nơi cư trú thường bị suy giảm, thức ăn trở nên khan hiếm dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng, các động vật trở nên yếu hơn và dễ mặc bệnh hơn.
Thứ ba, tại rất nhiều khu bảo tồn và vườn thú, các loài tiếp xúc với rất nhiều loài mà chúng rất ít khi, thậm chí không bao giờ gặp trong thiên nhiên hoang dã cho nên bệnh dịch có thể truyền từ loài này sang loài khác.
2.2.4. Sự chuyên hóa trong sản xuất nông nghiệp:
Do sức ép của sự gia tăng dân số trên thế giới, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm và các loại nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong tự nhiên, đồng thời cũng thúc đẩy loài người lựa chọn hay lai tạo ra các giố...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status