Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa - pdf 18

Download miễn phí Khóa luận Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa



MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 3
I/ Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: 3
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại: 3
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại. 5
3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại: 7
II. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại: 7
I. Vài nét về Ngân hàng công thương khu vực đống đa: 29
II. Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa 36
I.định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng 50
II. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương khu vực đống đa 51
III. Một số kiến nghị: 60
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

sinh lời rất thấp, vì vậy, giữ Ngân quỹ nhiều là không kinh tế.Quản lí ngân quỹ về thực chất và tính toán số ngân quỹ tối thiểu cần giữ trong các thời kỳ khác nhau, đồng thời cân đối giữ các bộ phận của ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi...)một cách phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách hàng (phần này được nghiên cứu kĩ hơn trong chương trình quản lí thanh khoản).
5.2.2.Quản lý chứng khoán.
Chứng khoán có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức. Tuy nhiên Ngân hàng quan tâm tới chứng khoán trên 2 giác độ chính: An toàn và sonh lợi chứng khoán. Vì vậy, Ngân hàng phân loại chứng khoán thành hai nhóm chính: Các chứng khoán thanh khoản song sinh lợi thấp và các chứng khoán kém thanh khoản hơn song sinh lợi lại cao. Loại thứ nhất được nắm giữ chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi trả, loại thứ hai chủ yếu đáp ứng yêu cầu sinh lợin. Loại thứ nhất trong chứng khoán của các Chính phủ, các tổ chức tài chính hàng đầu trong nước và quốc tế và có thời gian dến lúc đào hạn ngắn. Loại thứ hai là của Chính phủ, các tổ chức tài chính và các công th có thời gian đáo hạn tương đối dài.
Công tác quản lý chứng khoán đòi hỏi phải thướng xuyên xếp hạng chứng khoán tuỳ theo tính an toàn và thời gian còn lại của chungns. Ví dụ chứng khoán côg ty có thời hạn 5 năm, song đã nắm giữ được 4 năm 8 tháng, tình hình tài chính ủa công ty trả nợ tốt, thì có thể xếp vào chứng khoán thanh khoản. Chứng khoán 12 tháng song công ty phát hành đang lâm vào tình trạng khó khăn bất thường, ít khả năng cữu vãn thì cũng xếp vào chứng khoán kém thanh khoản. Nhiều Ngân hàng phân chia nhỏ thang bậc của chứng khoán theo cách xếp loại của các tổ chức tư vấn tài chính quốc tế (theo chất lượng quốc gia, ngành, công ty phát hành chứng khoán). Các chứng khoán cũng có thể được xếp loại theo mục đích nắm giữ chủ yếu, như chứng khoán nắm giữ nhằm mục đích kiểm soát công ty phát hành nắm giữ chỉ nhằm mục đích thu lợi tức, nắm giữ nhằm mục đích thanh khoản (bán để có thể chi trả), nhằm mục đích đầu cơ (kỳ vọng giá lên cao, bán để hưởng chênh lệch giá)... Ngân hàng có thể tổ chức phòng quản lý chứng khoán hay phòng ngân quỹ sẽ quản lý các chứng khoán thanh khoản còn phòng chứng khoán ( hay công ty chứng khoán) sẽ quản lý chứng khoán đầu tư.
Để xếp loại chứng khoán, Ngân hàng phải thướng xuyên theo dõi, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các công ty phát hành chứng khoán, sự biến động tỷ giá, lãi suất thị trường, giá bất động sản tình hình chính trị.. của mỗi quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Ngân hàng thường xuyên xét một số chỉ tiêu liên quan đến danh mục chứng khoán như rủi ro và thu thập chứng từ chứng khoán, xu hướng vận động của giá chứng khoán và nhân tổ ảnh hưởng, tỷ lệ chứng khoán thanh khoản trên ngân quỹ hay tiền gửi... các tỷ lệ này phản ánh chiến lược quản lý chứng khoán của Ngân hàng.
Quản lý chứng khoán được thực hiện trên nguyên tắc quản lý danh mục đàu tư. Các chứng khoán thường xuyên được phân tích với giá thị trường và cuối cùng là nguyên tắc đa dạng hoá “ không bỏ trừng vào một giỏ”.
5.2.3.Quả lý tín dụng.
Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu thu lời, như vậy mục tiêu an toàn và sinh lợi vẫn là mục tiêu chính trong quản lí tín dụng.
5.3.3.1. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập lớn nhất trong Ngân hàng.
Thu dự tính từ hoạt động tín dụng (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc vào quy mô, thời gian và lãi suất và cả ba yếu tố này có mỗi liên hệ khàng khu.
Thư nhất, Ngân hàng, sử dụng mới nỗ lực của mình của tăng quy mô tín dụng như mở rộng mạng lưới đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm gia tăng tiên ích cho khách giảm lãi suất hay cung cấp các điều kiện ưu đãi các biện pháp này nhằm làm giảm rủi ro cho ngân hàng. Mối quan hệ này cho phép Ngân hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ khác với các khách hàng lớn, quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường.
5.3.3.2. Rủi ro từ hoạt động tín dụng là rất lớn.
Tổn thất nếu xảy ra làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hay phá sản cho Ngân hàng. Do vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi Ngân hàng thương mại. Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể lệ là:Rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn: cho vay trung và dài hạn, cho vay tiêu dùng... rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn, hay cho vay đối với doanh nghiệp... Tuy nhiên sau khi tài trợ quan hệ đó lại là tồn thất càng cao thì sin lợi của ngân quỹ Ngân hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hay thấp trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối liên hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài hạn.
Ngân hàng thường phân loại rủi ro tính dụng dựa trên thông kê kinh nghiệm và phân tích các điều kiện thị trường. Phân loại này cho phép nhà quản lý xác định các tỷ lệ rủi ro liên quan tới từng nhóm khách hàng, các nguyên nhân rây ra rủi ro và môi trường rủi ro nảy sinh rủi ro. Phân loại cũng giúp nhà quản lý xác định các phép đo rủi ro tín dụng một cách hợp lý và ngưỡng rui ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận.
Nghiên cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng xây dựng quy trình phân tích tín dung và phổ biến rộng rãi quy trình đó cho mọi khách hàng sẽ góp phần làm cho khách hàng hiểu yêu cầu và nội dung công việc của Ngân hàng khi tài trợ. Thiết lập các quỹ và các hợp đồng tài chính nhằm bù đắp tổn thất xảy ra ràng buộc pháp lí giữa các Ngân hàng với khách hàng ( tài sản thế chấp...) giữa Ngân hàng với cán bộ tín dụng... (khoán thu nhập gắn với chất lượng tín dụng...)là biện pháp mà nhiều Ngân hàng đang hướng tới trong môi trường rủi ro đang ngày càng gia tăng.
Dự phòng là biện pháp nhiều Ngân hàng áp dụng để ước lượng giá trị các khoản cho vay có khả năng thu hôì. Dự phòng có thể được coi nnhư tài sản đối ứng khi Ngân hàng cho vay.
Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng tín dụng
Dự phòng tín dụng làm giảm vốn của chủ. Ngân hàng phải tính toán sao cho thu nhập ròng sau thuế và trích lập dự phòng tổn thất đủ để tăng vốn của chủ sau khi lập dự phòng tổn thất.
Các khoản nợ, nếu được xác định là nợ quá hạn, lãi tích luỹ trên tài khoán thu lãi (lãi dự tính) phải bị loại bỏ thu lãi cho đến khi khoản thu lãi được thực hiện. Do vậy, tỷ lệ sinh lời từ hoạt động tín dụng thường nhỏ hơn lãi suất cho vay.
chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại ngân hàng công thương đống đa
I. Vài nét về Ngân hàng công thương khu vực đống đa:
1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng Thương mại quốc doanh, hoạt động trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp,với đăng ký kinh doanh là : Ho
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status