Áp dụng phương pháp TCM để đánh giá giá trị du lịch tại Vườn Quốc Gia Cát Bà thành phố Hải Phòng - pdf 18

Download miễn phí Đề tài Áp dụng phương pháp TCM để đánh giá giá trị du lịch tại Vườn Quốc Gia Cát Bà thành phố Hải Phòng



Hiện có một số mô hình hoạt động du lịch được giới chuyên môn xây dựng, gồm: Tổ chức du lịch ở Vườn quốc gia Cát Bà, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hoạt động thể thao ở các khu đệm của Vườn quốc gia, tổ chức du lịch sinh thái như tham quan các khu rừng nguyên sinh, các loại động thực vật quý, hiếm, các loại hình du lịch kết hợp nghiên cứu khoa học chuyên đề như nghiên cứu rừng nguyên sinh, các hệ sinh thái nhiệt đới tiêu biểu, du lịch thể thao mạo hiểm, thám hiểm hang động đá vôi; nuôi trồng thủy sản với quy mô và vị trí phù hợp tại vùng chuyển tiếp để khách tham quan và cung cấp thực phẩm tại chỗ, dịch vụ nghề cá, giao thông vận tải vận chuyển khách du lịch.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tiếp giáp có diện tích 7600 ha, trong đó 4800 ha phần đảo, 2800 ha phần biển.
Vùng chuyển tiếp ở ngoài cùng. Các hoạt động kinh tế ở đây vẫn duy trì bình thường, trong đó nhân dân địa phương cùng các nhà khoa học công ty tư nhân, các tổ chức xã hội...phối hợp cùng khai thác, quản lý và phát triển bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên mà Vườn Quốc Gia Cát Bà đem lại. Vườn Quốc Gia Cát Bà có 2 vùng chuyển tiếp: vùng chuyển tiếp phía Bắc ( xã Gia Luận) có diện tích 1300 ha;. vùng chuyển tiếp phía Nam 8700 ha. Vùng chuyển tiếp là nơi tập trung đông dân cư nên chú trọng khuyến khích phát triển mang tính cộng đồng, hướng các dự án vào phát triển nông thôn, các hoạt động phục vụ dân sinh như nuôi trồng thủy sản, thu hút bộ phận dân cư chuyển sang dịch vụ du lịch và đào tạo những lao động có tay nghề kỹ thuật cao về đánh bắt hải sản để phát triển nghề cá và dịch vụ du lịch. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.
2.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn
Do có địa hình đặc biệt là đồi núi xen kẽ với đồng bằng và nằm sát biển nên các khu vực của Vườn Quốc Gia Cát Bà gần nhau nhưng lại có sự khác biệt nhau về khí hậu. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương đương như các khu vực xung quanh, tuy nhiên có đặc điểm là mùa đông thì ít lạnh hơn và mùa hè thì ít nóng hơn so với đất liền. Cụ thể là: Lượng mưa: 1.700-1.800 mm/năm, dao động theo mùa. Mùa mưa chủ yếu là tháng 7, 8. Nhiệt độ trung bình: 25-28°C, dao động theo mùa. Về mùa hè có thể lên trên 30°C, về mùa đông trung bình 15-20°C nhưng có thời điểm có thể xuống dưới 10°C (khi có gió mùa đông bắc). Độ ẩm trung bình: 85%. Dao động của thủy triều: 3,3-3,9 mét. Độ mặn nước biển: Từ 0,930% (mùa mưa) đến 3,111% (mùa khô)
2.1.1.3. Thực vật
Tài nguyên rừng ở Vườn Quốc Gia Cát Bà:
Với kiểu rừng nhiệt đới thưòng xanh mưa mùa ở đai thấp. Rừng chỉ còn ở 2 trạng thái là rừng cùng kiệt và rừng non phục hồi,. Tầng cây gỗ cao từ 18-25m. Tán cây không liên tục nên độ cho phủ biến động từ 0,2-0,6. Cấu trúc rừng phức tạp, có 5 tầng: Tầng vượt tán Cây cao trên 40 m, các loài phổ biến, đặc trưng cho tầng này như: sấu thung sâng, chò nhai. Tầng ưu thế sinh thái gồm những cây gỗ cao từ 20 đến 30m, thân thẳng, tán tròn giao nhau làm nên tán rừng liên tục. Tầng dưới tán gồm những cây cao dưới 15 m, mọc rải rác. Tầng bụi gồm những cây bụi, gỗ nhỏ cao dưới 8 m. Tầng thảm tươi gồm các cây thân thảo thấp (dưới 2 m).
Với nhiều kiểu phụ rừng như: Rừng trên sườn núi đá vôi, rừng trên đỉnh, rừng kim giao, rừng ngập nước trên núi và rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn nằm ở phía tây Bắc đảo với chủ yêu các loài họ đước, O zô, ráng, cỏ roi ngựa, thầu dầu, trang, sú...
Tuy nhiên khu vực rừng nguyên sinh tại đây đang gặp phải sự đe dọa từ nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là con người. Nếu tác động phá hoại của con người không được ngăn chặn mà vẫn tiếp tục đốt rừng và khai thác lâm sản quá mức lặp lại nhiều lần thì không chỉ thành phần thực vật bị xáo trộn mà đất rừng cũng bị thoái hoá, cằn cỗi làm cho rừng không thể tồn tại được và biến thành trảng cây bụi, trảng cỏ. Những hệ sinh thái này không chỉ chịu sự tác động trực tiếp của con người mà còn chịu tác động của điều kiện thổ nhưỡng thoái hoá. Do vậy, những quần thể rừng này được xếp vào kiểu phụ thổ nhưỡng nhân tác. Ở đây nhân tố thổ nhưỡng trở thành nhân tố quyết định làm cho quần thể thực vật rừng không thể diễn thế phục hồi lại trạng thái ban đầu
Hệ thực vật:
Hệ thực vật mang nguồn gốc thực vật Hymalaya - Myanma, Nam Trung Hoa và đảo Hải Nam với 149 họ, 495 chi, 745 loài thực vật bậc cao; trong số đó có 145 loài gỗ lớn, 120 loài gỗ nhỏ, 81 loài cây bụi, cây nửa bụi, cây leo 50 loài, cây thân thảo đứng 237 loài, cây thân thảo leo 56 loài và 56 loài quyết. Nhiều cây cần bảo tồn như chò chỉ, trai lý, lát hoa, kim giao và cọ Bắc Sơn. Rừng ngập mặn dày đặc, bãi cát rải rác, có ngấn sóng vỗ, có rạn san hô ngầm viền quanh chân đảo và năm 2004, UNESCO đã công nhận đây là khu dự trữ sinh quyển quần đảo, trong đó có 58 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam, 29 loài được Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới IUCN xếp loại bị đe dọa. Nhiều loài thực vật đặc hữu của địa phương và Đông Dương cũng có mặt tại đây. Các loại nấm cũng có khá nhiều. Cán bộ khoa học đã thống kê có tới 44 loài nấm thuộc 22 chi. Ngoài ra, trên núi đá vôi có cả ao, hồ, suối ngầm, nước ngọt cùng suối nước khoáng có cả khả năng chữa trị bệnh, nhất là thấp khớp.
Các vùng ven biển ngập mặn của đảo còn là nơi cư trú của những loài thực vật đặc trưng sống trong nước. Sự hấp dẫn của Vườn Quốc Gia Cát Bà thể hiện cả ở yếu tố cấu tạo địa hình, địa chất phong phú với các hồ nước trên núi đá vôi, các hang độc đáo và những rạn san hô đẹp ven chân đảo trong vịnh Lan Hạ.
Các khu rừng còn chứa các loài cây lá rộng có giá trị như các loài thuộc họ Dipterocarpaceae, gỗ hồng mộc và trầm hương. Ở trên núi cao, các loài cây gỗ sồi và hạt dẻ là rất phổ biến. Các khu rừng ở đây giàu về các loài thuộc họ cau dừa như mây và cọ đuôi cá, cũng như các loài dương xỉ và các loài lan. Do ảnh hưởng của việc rải chất độc diệt cỏ và bm đạn trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, rừng nguyên sinh ở một số vùng của Vườn Quốc Gia đã bị ảnh hưởng đáng kể.
2.1.1.4. Động vật
Có 129 loài động vật có xương sống, trong đó có 40 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và ếch nhái; đặc biệt có loài voọc đầu trắng (Trachypithecus poliocephalus) là loài đặc hữu, quý hiếm cả ở Việt Nam và thế giới. Về sinh vật biển, có 650 loài, gồm tu hài, san hô, đồi mồi, cá heo, cá ngựa. Khỉ lông vàng, sơn dương và nhiều loài chim đẹp như cao cát, bói cá, hút mật, đầu rìu. Ở Cát Bà cũng có chim yến và rùa biển được chăm sóc bảo tồn
Voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi poliocephalus), loài đặc hữu, chỉ phân bố ở Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) với số lượng khoảng 150 - 200 cá thể, tình trạng rất nguy cấp (CR). Tuy không phong phú về số loài thú, chim, bò sát, lưỡng cư do đặc điểm vườn quốc gia cách ly với đất liền, nhưng bù lại nơi đây bảo tồn được những đặc điểm riêng của hệ sinh thái hải đảo. Voọc đầu trắng có thể nói là loài đặc hữu của Việt Nam, thú quý hiếm của thế giới, nay là báu vật của Cát Bà. Voọc Cát Bà có phần thân dài trung bình 50cm nhưng đuôi lại dài tới 90cm, cân nặng chỉ khoảng 10kg, chuyên ăn lá cây. Loài này hiện đang bị đe dọa tuyệt chủng ở cấp độ rất nghiêm trọng, được thế giới đặc biệt quan tâm bảo vệ và Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới liệt vào danh sách một trong hai loài linh trưởng đặc biệt nguy cấp. Cát Bà có nhiều loại động, thực vật ghi trong Sách Đỏ thế giới như tê tê, sơn dương, khỉ vàng, pơmu, trám tím, lim xanh, gió...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status