Phân tích môi trường kinh doanh của Xí Nghiệp Mây Tre Ngọc Sơn - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Phân tích môi trường kinh doanh của Xí Nghiệp Mây Tre Ngọc Sơn



Về nguồn nguyên liệu cho sản xuất thì có một thực trạng là nguồn cung cấp nguyên liệu cho cả ngành hàng mây tre giang đan ở Việt Nam hiện nay đến từ thị trường tự do, do vậy quan hệ giữa sản xuất và cung cấp nguyên liệu đều chịu sự điều chỉnh theo quan hệ cung cầu và quan hệ giá trị, khi số lượng hàng xuất khẩu tương ứng với một loại nguyên liệu tăng lên nhanh có nghĩa là giá cả của loại nguyên liệu này sẽ tăng tương ứng, hay nếu có tình tranh mua thì giá nguyên liệu sẽ tăng lên rất nhanh trong khi chất lượng lại có xu hướng giảm xuống, điều này xẩy ra là không có lợi cho nhà sản xuất hàng thủ công và một khi hợp đồng đã được ký với khách hàng nước ngoài thì các nhà xuất khẩu phải thực hiện trong khi lợi nhuận chắc chắn sẽ bị giảm hay không có đó là kết quả tất yếu do giá nguyên liệu tăng và chất lượng hàng xuất lại không được đảm bảo như mong muốn sẽ là nguyên nhân dẫn tới khiếu nại hay phạt hợp đồng. Ngược lại, nếu số lượng hàng xuất khẩu tương ứng với một loại nguyên liệu giảm đi, có nghĩa là giá nguyên liệu giảm, quyền lợi người trồng và sản xuất nguyên liệu sẽ bị giảm tương ứng và lỗ vốn, dẫn tới thị trường cung cấp nguyên liệu thu hẹp dần, lòng tin của người cung cấp nguyên liệu với người sản xuất hàng thủ công bị mai một, hay nói khác đi là họ sẽ kém mặn mà trong việc đầu tư trồng cấy, chăm sóc, đầu tư vì giá cả thị trường bấp bênh, dẫn tới loại nguyên liệu đó lại rơi vào chu kỳ khan hiếm ảnh hưởng tới đà tăng trưởng chung của ngành thủ công xuất khẩu, ví dụ rõ nhất là nguyên liệu mây và cói hiện nay. Vấn đề nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng TCMN cũng đã được tính đến trong đề án trình Chính Phủ do đó trong tương lai có thể hy vọng rằng vấn đề này sẽ được giải quyết.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ỏ nhất, màu sắc hài hoà, đảm bảo độ bền sử dụng tương đối, không mối mọt,do vậy nhóm hàng này đòi hỏi đầu tư nhiều công lao động.
*Nhóm hàng bao bì: nhóm hàng này chủ yếu dùng như bao bì chẳng hạn như dùng để ươm cây giống, hay dùng vào việc gì khác tương tự. Làm loại hàng này quy trình đơn giản hơn, thời gian làm hàng nhanh hơn, có thể sử dụng cả những lao động có tay nghề thấp hay học việc.
*Nhóm hàng dùng trong nhà bếp: nhóm hàng này có đặc điểm là yêu cầu kỹ thuật không cao bằng nhóm hàng văn phòng trang trí nhưng cao hơn nhóm hàng bao bì, điều quan trọng nhất là nhìn bằng mắt phải thấy được sự sạch sẽ, màu sắc đồng nhất, không mói mọt, không có mùi lạ và đặc biệt là không được dùng hoá chất độc hại trong quá trình sơ chế hay bảo quản loại hàng này.
Về quy trình sản xuất các nhóm mặt hàng này tui xin trình bày ở phần phụ lục. Còn về cụ thể mẫu mã, tên sản phẩm, giá cả của các mặt hàng thì các bạn có thể xem chi tiết tại trang web của doanh nghiệp.
Về sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh thì có một nhận xét chung rằng chất lượng của mặt hàng TCMN của các doanh nghiệp Việt Nam là khá tương đồng không có sự khác biệt, chênh lệch hẳn về chất lượng sản phẩm bởi vì chúng đều được sản xuất ra từ các làng nghề truyền thống trên đất nước. Nên đó là những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc, thể hiện tài năng khéo léo của người thợ thủ công tài hoa Việt Nam. Và chính điều này đã khiến cho các khách hàng rất khó tính của Nhật Bản đã phải đánh giá cao hàng TCMN của Việt Nam. Dưới đây tui xin trích dẫn một số nhận xét của các cá nhân và tổ chức thương mại của Nhật Bản về hàng TCMN của Việt Nam:
Có rất nhiều cơ hội đang chờ đón các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất sản phẩm hàng TCMN sang thị trường Nhật Bản.
Ông Yasumi Higo trưởng văn phòng thay mặt tại Việt Nam của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản ( Jetro) đã nhận xét: “Có thể nói, thị trường hàng TCMN tại Nhật Bản là mảnh đất mầu mỡ mà hàng Việt Nam có thế mạnh riêng để tham gia”
Ông Sumio Hasegawa, Chủ tịch trung tâm xúc tiến hàng tiêu dùng Nhật Bản cho biết: “ Hiện nay người tiêu dùng Nhật tỏ ra ưa chuộng hàng TCMN và đồ lưu niệm nhập khẩu từ Việt Nam”
Ông Hiroshi Yokokawa đã đưa ra những thông tin về xu hướng người dân Nhật ngày càng gia tăng mua sắm các sản phẩm TCMN do Việt Nam sản xuất: “ Hàng TCMN Việt Nam có sức thu hút bởi sự kết hợp giữa văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây, giữa hiện đại và truyền thống, màu sắc tươi sáng. Tính tỷ mỷ và tinh tế trong các sản phẩm này là những yếu tố người tiêu dùng Nhật Bản đánh giá rất cao”
Ông nhận xét “Hàng TCMN Việt Nam quen thuộc đến nỗi đã tạo nên một làn sóng du khách Nhật đến Việt Nam tham quan và mua sắm ngày một nhiều”. Theo ông Yokokawa, năm 1999 đã có trên 87000 lượt doanh nhân và khách du lịch Nhật đến Việt Nam so với năm 1994 là 31400 lượt. Trong số đó chủ yếu là nữ giới ở độ tuổi 20-30, là những người thay mặt giới tiêu dùng quan tâm nhiều đến cái đẹp, thời trang.
Đây quả là một thời điểm thích hợp để doanh nghiệp Việt Nam đưa hàng vào thị trường này.
Tuy nhiên, theo số liệu của Jetro, tính chung cả nhóm hàng tạp phẩm (bao gồm cả hàng TCMN, đồ chơi và quà tặng) Việt Nam mới chỉ chiếm 2% tổng giá trị nhóm hàng này nhập khẩu vào Nhật trong chín tháng đầu năm 2000, so với Thái Lan là 4%, Inđônêxia là 3% và Trung Quốc lên đến 42%. Chính vì vậy, ngành TCMN Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức.
Ông Yokokawa nói lại lời nhắn nhủ của các doanh nghiệp Nhật Bản, mong muốn doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đảm bảo giao hàng đúng số lượng, chất lượng ổn định, đặc biệt là giữ cam kết về thời hạn giao hàng. Ông lưu ý doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm đến mẫu mã, kiểu dáng mới vì người tiêu dùng Nhật rất quan tâm đến yếu tố này trong sản phẩm TCMN.
Như vậy, qua nhận xét đánh giá của các tổ chức của Nhật chúng ta có thể thấy Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội để xuất khẩu hàng TCMN sang Nhật.
Tuy nhiên các sản phẩm TCMN của ta không phải là không có những yếu điểm và hạn chế: mẫu mã ít được cải tiến, chất lượng thấp, giá thành cao cộng với hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường của các doanh nhân còn yếu... Nên trong tình hình mới càng khó khăn trong cạnh tranh duy trì và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ. Sản phẩm của xí nghiệp mây tre Ngọc Sơn cũng có nhiều yếu điểm như chủng loại hàng hoá chưa phong phú, giá còn cao và yếu nhất là trong khâu mẫu mã sản phẩm do xí nghiệp không có đội ngũ thiết kế có trình độ chuyên môn.
III. Phân tích thị trường và phân tích môi trường kinh doanh
1. Phân tích môi trường kinh doanh bên ngoài
Nhật Bản là một quốc gia nằm phía Đông Bắc á, với tổng diện tích là 378.000 km vuông, trải dài trên gần 4000 km. Quần đảo Nhật Bản gồm 3900 hòn đảo, phần lớn là những đảo nhỏ, trong đó có 4 đảo lớn là Hokaido, Honshu, Shikoku, Kyushu.
Với lãnh thổ trải dài, Nhật Bản có sự khác biệt rõ ràng về khí hậu ở các miền. Miền Bắc có mùa đông lạnh, có tuyết, hè ôn hoà, miền Nam ấm hơn. Khí hậu ở đây được phân làm 4 mùa rõ rệt, với một hệ động thực vật phong phú.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, mặc dù đã có sự giao thoa thường xuyên với văn hoá nước ngoài nhưng vẫn tạo ra một dân tộc Nhật Bản thuần nhất đến lạ kỳ với tính độc lập tự chủ, tính dân tộc vào loại cao nhất thế giới. Cũng như mọi nền văn hoá khác, văn hoá Nhật Bản bao gồm nhiều yếu tố cùng tác động để tạo nên một phong cách rất riêng của ngươì Nhật trong kinh doanh và cả trong thói quen tiêu dùng.
Nhật Bản là quốc gia có nền công nghệ phát triển vào bậc nhất trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã làm một cuộc cách mạng thần kỳ về kinh tế, từ một nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới. Công nghệ cao đã tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt và giá cả phù hợp. Người dân Nhật đã quen sử dụng những sản phẩm chất lượng cao trong nước, cộng với thói quen tiêu dùng hàng nội địa đã khiến cho các quốc gia khác gặp phải rất nhiều khó khăn trong vấn đề gia nhập thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên theo tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) thì người dân Nhật không hề phân biệt đối xử với hàng hoá nước ngoài và sẵn sàng trả giá cao hơn một chút miễn là hàng hoá đó có chất lượng cao. Như vậy vấn đề chất lượng là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu khi muốn đưa hàng vào thị trường này.
Cũng như Anh, Nhật Bản là một quốc gia theo chính thể quân chủ hình thức, một quốc hội được gọi là nghị viện mà trong đó thượng nghị viện chỉ có tính hình thức và hạ viện thì thật sự nắm giữ quyền lực, một thủ tướng chính phủ được chọn bởi quốc hội thay vì tổng tuyển cử. Cỗ máy cai trị của Nhật không can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nước, tuy nhiên lại đề ra một chính sách bảo hộ khá cao. Tron...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status