Ngành công nghiệp hoá dầu non trẻ của Việt Nam trong tiến trình hội nhập - pdf 19

Download miễn phí Khóa luận Ngành công nghiệp hoá dầu non trẻ của Việt Nam trong tiến trình hội nhập



MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ DẦU CỦA VIỆT NAM 1
I. Tổng quan về Ngành công nghiệp Hoá dầu 1
1. Giới thiệu chung về Ngành công nghiệp Hoá dầu 1
2. Các sản phẩm chính của Ngành hoá dầu và tầm quan trọng của chúng 2
2.1 Polyethylene _ PE 2
2.2 Polypropylene _ PP 3
2.3 Polystyrene _ PS 3
2.4 Polyvinyl Chloride _ PVC 4
2.5 Acrylonitrile Butadiene Styrene/ Styrene Acrylonitrile _ ABS/SAN 5
2.6 Styrene Butadiene Latex _ SB Latex 5
2.7 Dioctyl Phthalate _ DOP 6
2.8 Terephthalic Acid _ TPA 6
2.9 EPOXY 7
II. Vai trò của ngành công nghiệp Hoá dầu : 7
1. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác 8
2. Tiết kiệm ngoại tệ 10
3. Tăng hàm lượng giá trị nội địa của sản phẩm 10
4. Tạo thêm công ăn việc làm 11
5. Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên 11
III. Thực trạng ngành công nghiệp Hoá dầu Việt Nam 12
1. Thuận lợi: 12
1.1 Tình hình Kinh tế- Chính trị- Xã hội ổn định 12
1.2 Tài nguyên thiên nhiên sẵn có 14
1.3 Chi phí lao động thấp 17
1.4 Thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng 18
2. Khó khăn 19
2.1 Cơ sở hạ tầng phát triển chưa đồng bộ 19
2.2 Trình độ khoa học kỹ thuật thấp 21
2.3 Chi phí sản xuất cao 22
2.4 Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn 24
3. Cung và cầu nội địa trên thực tế 25
3.1 Cầu trong nước 25
3.2 Cung trong nước 26
3.3 Nhập khẩu 28
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÀNH HOÁ DẦU Ở MỘT SỐ NƯỚC 30
TRONG KHU VỰC CHÂU Á 30
I. Kinh nghiệm của Thái Lan 31
1. Sự hình thành Ngành công nghiệp Hoá dầu Thái Lan 31
2. Ngành Hoá dầu Thái Lan những năm đầu thập niên 90 35
2.1 Sản xuất 35
2.2 Đặc điểm về kinh tế và công nghệ của ngành Hoá dầu giai đoạn đầu thập niên 90 36
2.3 Các hình thức sở hữu trong ngành hoá dầu Thái Lan 37
2.4 Các hiệp hội trong ngành Hoá dầu 39
3. Thái Lan tái cơ cấu ngành Hoá dầu trước thách thức hội nhập 39
3.1 Lý do thực hiện tái cơ cấu 39
3.2 Tự do hoá hoạt động nhập khẩu 40
3.3 Định giá sản phẩm 43
3.4 Chính sách gia nhập ngành Hoá dầu 44
3.5 Các doanh nghiệp Nhà nước với chính sách mới về Olefin 45
3.6 Tổng kết về việc thực thi chính sách mới và sự xuất hiện của mô hình công nghiệp hoá mới trong ngành Hoá dầu 45
4. Ngành Hoá dầu Thái Lan đương đầu với khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 47
II. Kinh nghiệm của Trung Quốc 52
1. Ngành Hoá dầu Trung Quốc trước khi gia nhập WTO 52
1.1 Tình hình cung- cầu 53
1.2 Tính chất của thị trường hoá dầu Trung Quốc 54
1.3 Các hình thức sở hữu 54
2. Ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO tới ngành Hoá dầu 58
2.1 Những cam kết Trung Quốc phải thực hiện khi gia nhập WTO 58
2.2 Thách thức đối với ngành Hoá dầu khi gia nhập WTO 58
3. Các biện pháp bảo hộ ngành Hoá dầu của Trung Quốc 64
3.1 Thuế quan: 64
3.2 Quyền mậu dịch 64
3.3 Hạn ngạch nhập khẩu 64
3.4 Giấy phép nhập khẩu: 65
3.5 Thuế chống bán phá giá và thuế trừng phạt 65
III. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 67
1. Hàn Quốc- nước đi sau nhưng về trước 67
2. Ngành Hoá dầu Hàn Quốc thực hiện tái cơ cấu 71
2.1 Tăng cường đầu tư cho các trang thiết bị 71
2.2 Tái cơ cấu các tập đoàn hoá dầu 71
IV. Bài học về các công cụ bảo hộ cho các quốc gia có ngành Hoá dầu non trẻ 74
1. Thuế quan: 74
2. Quyền mậu dịch 74
3. Hạn ngạch nhập khẩu 75
4. Giấy phép nhập khẩu 75
5. Hạn ngạch thuế quan 76
6. Trợ giá 76
7. Thuế chống bán phá giá và thuế trừng phạt 77
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN 78
KẾT HỢP VỚI BẢO HỘ NGÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ DẦU CỦA VIỆT NAM 78
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP 78
I. Định hướng phát triển của ngành công nghiệp Hoá dầu Việt Nam 78
II. Dự đoán tình hình cung cầu của một số sản phẩm hoá dầu trong tương lai 82
1. Cung cầu về bột nhựa tổng hợp 82
2. Cung cầu về sợi tổng hợp 83
3. Cung cầu về cao su tổng hợp 85
III. Kiến nghị 85
1. Nhanh chóng xác định mô hình phát triển phù hợp cho ngành Hoá dầu 85
2. cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phát huy nội lực 87
3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong phát triển ngành Hoá dầu 89
4. Cải thiện môi trường đầu tư 91
5. Bảo hộ tích cực sản xuất trong nước 94
6. Hoạch định các chính sách công nghệ, R&D và đào tạo có lợi cho ngành Hoá dầu 95
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Silpaarcha lên cầm quyền hứa hẹn một lộ trình chậm rãi hơn cho thương mại tự do.
Tuy nhiều biện pháp bảo hộ được đề xuất như thiết lập quỹ phục vụ những điều chỉnh của AFTA hay thu phụ phí nhiều hơn. Nhưng không có biện pháp nào được chấp thuận và đưa vào thực tiễn trong năm 1996.
Thời hạn 1/1/1997 càng đến gần thì những tranh cãi xung quanh kế hoạch cắt giảm thuế quan càng gay gắt. Sáu nhà sản xuất PET gây áp lực buộc Chính phủ giữ nguyên thuế suất 30% đối với nhựa PET. FTI yêu cầu Chính phủ ngừng thực thi chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu đưa ra năm 1994. Họ mong muốn giữ nguyên mức thuế hiện hành trong vòng 3 đến 5 năm để các nhà sản xuất trong nước có thời gian giảm bớt chi phí thì mới có khả năng cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. FTI lập luận rằng: a) ngành Hoá dầu và ngành nhựa đều là những ngành công nghiệp non trẻ nên cần được bảo hộ, b) giá nguyên liệu của NPC cao hơn giá hàng nhập khẩu, c) phí đánh vào tàu chở hoá chất và phí bốc dỡ còn cao, d) các nhà sản xuất đều đang nợ nần chồng chất vì lãi suất đi vay và bảo lãnh cao, e) ở Thái Lan, các nhà sản xuất ít được ưu đãi hơn so với ở Indonesia và Malaysia.
Trong nội bộ Chính phủ cũng chia làm hai phía ủng hộ và không ủng hộ. Để giải quyết vấn đề này, một uỷ ban bao gồm các thay mặt của Bộ Đầu tư, Thương mại, Tài chính và Công nghiệp được thành lập. Ngày 24/12/1996, quyết định được đưa ra dựa vào đề xuất của Bộ Tài chính: thuế suất đối với 33 mặt hàng hoá dầu và nhựa sẽ vẫn bị cắt giảm theo kế hoạch, 95 mặt hàng còn lại sẽ thuộc diện cắt giảm chậm với mức cắt giảm là 3% tính đến 1/1/1997 và cắt giảm theo đúng mức kế hoạch đã đề ra tính đến 1/7/1997. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng dành cho ngành Hoá dầu một sự đền bù trong đó có việc thu phụ phí đối với những hàng nhập khẩu bị coi là có giá không hợp lí. Quá trình thực thi bị gián đoạn khi khủng hoảng bùng nổ năm 1997 nhưng định hướng này vẫn được Chính phủ duy trì.
Tự do hoá nhập khẩu đối với sản phẩm Hoá dầu bắt đầu khá chậm so với các sản phẩm khác do có sự phản đối bền bỉ của các nhà sản xuất. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất hạ nguồn lại muốn thúc đẩy tiến trình này vì họ cho rằng giá nguyên liệu trong nước quá cao khiến sản phẩm của họ thiếu tính cạnh tranh. FTI cũng từng chỉ chích mức thuế nhập khẩu nguyên liệu và máy móc là quá cao. Vấn đề khó xử là: FTI là tổ chức tập hợp cả các nhà sản xuất “thượng nguồn” lẫn “hạ nguồn” nên họ có nghĩa vụ phải bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Cuối cùng khi họ quyết định ủng hộ tiến hành tự do hoá chậm hơn và liên kết với Bộ Công nghiệp va Bộ Đầu tư thì các nhà sản xuất “hạ nguồn” lại thông qua Hiệp hội hoá dầu Thái Lan để liên kết với Bộ Thương mại_ cơ quan chịu trách nhiệm làm việc với WTO và AFTA.
Định giá sản phẩm
Giá nguyên liệu cũng là vẫn đề gây nhiều tranh cãi. Như đã đề cập, mùa xuân năm 1993, PTT và NPC đã chấp nhận giảm giá 30%. Tháng 11 năm này, công thức định giá có thay đổi: đối với một số lượng tối thiểu thì vẫn áp dụng công thức chi phí cộng chênh lệch nhưng với số lượng vượt quá số lượng tối thiểu đó thì giá được tính ngang với giá hàng nhập khẩu (bằng giá CIF từ khu vực Viễn Đông + thuế). Hơn nữa, NPC đã ký thoả thuận với 3 nhà sản xuất “hạ nguồn” về việc cung cấp olefin với mức giá căn cứ theo giá quốc tế (giá hợp đồng US Gulf +10%).
Tháng 2 năm 1995, Tiến sĩ Savit Bhotiwihok của văn phòng thủ tướng yêu cầu Bộ Công nghiệp hạ giá khí thiên nhiên bán cho khu vực tư nhân và đến tháng 3 năm 1995 thì Uỷ ban chính sách hoá dầu của Bộ Công nghiệp đưa ra chính sách giá mới cho olefin và chất thơm. Theo đó, giá của NPC và TOC sẽ phải căn cứ theo giá thị trường thế giới kể từ tháng 8 năm 1995. NPC đưa ra mức giá là “giá US Gulf + 10%” và sau đó một thời gian thì thay đổi thành “+7%” để chào hàng các nhà sản xuất “hạ nguồn”. Laurids S. Lauridsen_ “Policies and Institutions of industrial deepening and upgrading in Thailand I”- CAS và CIMDA_ 1999
Khi thực thi chính sách tự do hoá nhập khẩu, các nhà sản xuất bột nhựa đã thành công hơn nhiều trong việc thay đổi giá cả một phần bởi vì chính sách của họ phù hợp với tiến trình tự do hoá, một phần vì họ đã phá vỡ hợp đồng với NPC và TOC và thay thế vào đó bằng hàng nhập khẩu.
Chính sách gia nhập ngành Hoá dầu
Bộ Công nghiệp Thái Lan là đơn vị rất tích cực trong việc sửa đổi “chính sách gia nhập có giới hạn” áp dụng trong thời gian trước. Trước năm 1992, Bộ ban hành một chính sách cấm thành lập hay mở rộng các nhà máy sản xuất PE, PP, PVC, VCM, PS, ABS, SBR, SM, EG, LAB, và PTA. Tháng 3 năm 1992, Bộ ra thông báo cho phép đầu tư tự do vào sản xuất PE, PP, PVC và VCM nhưng vẫn giữ nguyên quy định trước đó đối với các sản phẩm khác trừ những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư của Bộ Đầu tư thoả mãn được điều kiện là 80% sản lượng phải được xuất khẩu. Tháng 4 năm 1994, Bộ Công nghiệp tuyên bố sẽ thực hiện tự do hoá đầu tư, tất cả các rào cản đối với sản xuất “trung gian” và “hạ nguồn” sẽ được dỡ bỏ vào tháng 1 năm 1997, còn sản xuất “thượng nguồn” sẽ được bảo hộ cho đến 1/1/1999. Tháng 5 năm 1995, Bộ lại đưa ra một kế hoạch mới mà theo đó, tất cả các lĩnh vực sản xuất- trừ sản xuất chất thơm sẽ được tự do hoá ngay lập tức, riêng chất thơm (vì chưa bắt đầu sản xuất) sẽ được bảo hộ đến tháng 1 năm 2004. Chính sách gia nhập tự do vào sản xuất “thượng nguồn” cũng kèm theo một điều kiện quan trọng là các sản phẩm phụ như nhiên liệu sẽ không được bán ra trên thị trường nội địa trừ khi có sự cho phép của Uỷ ban chính sách năng lượng quốc gia.
Tiếp theo những thay đổi về chính sách của Bộ Công nghiệp, Bộ Đầu tư cũng quyết định cân nhắc về những ưu đãi đối với những dự án mới (trừ dự án của nguyên liệu nhựa) theo định hướng tự do hoá của Bộ Công nghiệp.
Chính sách mới như một sự cam kết giữa những nhà sản xuất có liên quan (như sản xuất bao bì, dệt may) với những nhà sản xuất “thượng nguồn” vì một bên vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu trong nước có giá cao trong khi hàng hoá của họ nằm trong diện cắt giảm nhanh của AFTA còn bên kia cần sự bảo hộ đối với những nhà máy mới trong NPC_2 cho đến năm 2001.
Các doanh nghiệp Nhà nước với chính sách mới về Olefin
Trong năm 1995, rõ ràng là các doanh nghiệp Nhà nước đang phải thu hẹp qui mô khi SCC và TPI đã bắt đầu thực hiện liên kết theo chiều dọc. Nhiều người cũng cho rằng đã đến lúc phải giảm bớt sự can thiệp của Chính phủ. Vì vậy, PTT và NPC phải chuẩn bị đưa ra những chính sách giá mới cũng như phải chuẩn bị tinh thần cho một cuộc cạnh tranh gay gắt hơn và cho yêu cầu giảm bớt các quy định và tư nhân hoá trong tương lai.
Bước đầu tiên được thực hiện là một thoả thuận giữa PTT và NPC về một hệ thống định giá nguyên liệu nhựa mới theo giá quốc tế và cho phép NPC được bán olefin cho các nhà sản xuất “trung gian” ở mức giá quốc tế.
Bước thứ hai l...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status