Thực chất cổ phần hoá và cổ phần bộ phận doanh nghiệp Việt Nam - pdf 27

Download miễn phí Thực chất cổ phần hoá và cổ phần bộ phận doanh nghiệp Việt Nam



Cổ phần hoá bộ phận DNNN là giải pháp cơ bản nhằm xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp, chuyển hẳn sang kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước nên dễ bị phản ứng của một số lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan chủ quản. Do đó không chỉ cổ phần hoá theo sự tự nguyện của giám đốc doanh nghiệp hay chủ trương làm hay không của thủ trưởng cơ quan chủ quản, mà cần có biện pháp kiên quyết đối với những doanh nghiệp thấy thật sự cần thiết và có điều kiện để cổ phần hoá.
2. Nên chăng khi tiến hành cổ phần hoá cùng với việc đánh giá chính xác giá trị tài sản, thanh toán nợ nần cũng cần có sự phân loại "giàu nghèo" cụ thể để quy định tỷ lệ trích giá trị tài sản trên nguyên tắc tài sản ít thì tỷ lệ cao để người lao động đỡ thiệt thòi, không nên áp dụng đồng loạt 10% và 15% như hiện nay. Trước sau thì phần lớn các DNNN đều phải cổ phần hoá nên thay vì làm các doanh nghiệp nhỏ và yếu kém trước như hiện nay, Nhà nước nên tạo điều kiện cho một số DNNN làm ăn có hiệu quả, giá trị tài sản lớn đi vào cổ phần hoá để làm đầu kéo theo các doanh nghiệp khác.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ành phần kinh tế, thường áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và lớn có thể đang kinh doanh có lãi hay đang gặp khó khăn.
- Cổ phần hoá thường áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn đang kinh doanh có lãi.
- Cho thuê, hợp đồng kế hoạch, thầu khoán, cách BOT, thường được áp dụng cho các doanh nghiệp mà Nhà nước chưa muốn chuyển đổi sở hữu. Như vậy khái niệm cổ phần hoá hẹp hơn tư nhân hoá và cổ phần hoá chỉ là một trong nhiều biện pháp của tư nhân hoá.
II. Sự cần thiết của cổ phần hoá
1. Vai trò và thực trạng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần. Doanh nghiệp nhà nước phân biệt với doanh nghiệp tư nhân ở quyền sở hữu của Chính phủ và phân biệt với các cơ quan khác của chính phủ ở tính chất kinh doanh thương mại, tạo ra thu nhập qua cung cấp hàng hoá và dịch vụ của chúng. Đặc điểm sở hữu của Chính phủ hầu như bao gồm cũng bao gồm cả quyền kiểm soát, chỉ đạo can thiệp ở một mức độ nào đó và hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước là những chuyển khoản từ chính phủ và tiền vay.
Trên thế giới, không có nước nào triệt để hoàn toàn các doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của khu vực này được xác định và thay đổi tuỳ từng trường hợp vào đặc điểm chế độ chính trị - xã hội cũng như trình độ và mục tiêu nền kinh tế qua mỗi thời kỳ phát triển kinh tế đất nước.
Trước đây chúng ta đã có quan điểm đồng nhất vai trò chủ đạo với vai trò thống trị của kinh tế quốc doanh nên đã tạo ra cho nền kinh tế quốc dân một khu vực quốc doanh đồ sộ và thiết lập một cơ chế nhằm triệt tiêu các thành phần kinh tế phi XHCN. Cơ cấu kinh tế thuần nhất với hai thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể đã không khuyến khích việc thừa kế những lực lượng kinh tế do lịch sử để lại. Do đó đã tạo ra một khu vực kinh tế quốc doanh không năng động, không cần cạnh tranh và hoạt động kém hiệu quả, trong khi đó khu vực kinh tế có sức phát triển (kinh tế tự nhiên) thì bị chèn ép.
Trong cơ chế thị trường với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh được xác định cần củng cố và phát triển nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Doanh nghiệp Nhà nước, một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Trước yêu cầu giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước phải được củng cố, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân .
Doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Đây là yêu cầu có tính quy luật chung của sự phát triển kinh tế xã hội, vì bản thân nền kinh tế thị trường chứa đựng những khuyết tật mà muốn khắc phục cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước.
Nhìn chung sự cần thiết của khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được biện minh bởi những lý do:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng mà quyền sở hữu không thể xác định (giao thông đường thuỷ, công trình kiến trúc lịch sử, phong cảnh thiên nhiên) hay những hàng hoá, dịch vụ mà tư nhân không thể và không muốn làm (điện, nước...)
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước thúc đẩy sự phát triển cân đối và giải quyết việc làm ở các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế đòi hỏi đầu tư lớn và độ mạo hiểm cao mà tư nhân không đủ sức và không muốn đầu tư.
Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước kiểm soát những khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh quốc gia như công nghiệp quốc phòng, khai thác mỏ nguyên liệu phóng xạ.
Thứ tư, doanh nghiệp Nhà nước thực hiện sự phân phối lại thu nhập, chống khuynh hướng dẫn tới độc quyền tự nhiên lại khu vực tư nhân.
Thứ năm, doanh nghiệp Nhà nước là một kênh tạo thu nhập quan trọng cho ngân sách nhà nước, là kênh thu hút viện trợ và vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế cũng như là biểu hiện và phương diện đề cao tinh thần độc lập tự chủ quốc gia và kinh tế là biểu hiện của sự công bằng xã hội.
2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay.
Trong cơ chế cũ, ở nước ta doanh nghiệp nhà nước tồn tại với một số lượng khổng lồ. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến ngày 1/9/1990 cả nước có 12.084doanh nghiệp hoạt động trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và do nhiều cấp quản lý. Sau khi thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại theo quyết định 315/HĐBT ngày 1/9/1990 và thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước theo nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn còn 6500 doanh nghiệp. Trong đó 1971 doanh nghiệp (chiếm 30,3%) do các bộ, ngành Trung ương quản lý và 4529 doanh nghiệp (chiếm 69,7%) do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý.
Đến năm 1995, số lượng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trong lĩnh vực công nghiệp là 78,8%; xây dựng cơ bản: 49%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: 99,6%; giao thông vận tải bưu điện: 54%; thương nghiệp, vật tư: 46,5% (theo báo cáo về tình hình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước của Bộ kế hoạch và đầu tư ngày 14/3/1995).
Sau những năm đổi mới và điều chỉnh, số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã giảm gần một nửa song vẫn còn quá nhiều. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay vẫn tồn tại ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực, điều đó là không cần thiết. Hơn nữa với số lượng doanh nghiệp Nhà nước nhiều như vậy làm vượt qua khả năng nguồn lực về vốn và các bộ quản lý của nước ta hiện có.
Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, còn phân bố rất hợp lý. Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hồ Chí Minh. Nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào như miền núi phía Bắc hầu như không có doanh nghiệp Nhà nước nào. Sự phân tán các doanh nghiệp Nhà nước ở các ngành, lĩnh vực dẫn đến tình trạng trên cùng một địa bàn lãnh thổ các doanh nghiệp Nhà nước của Trung ương, địa phương hoạt động chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau một cách vô tổ chức, gây khó khăn cho nhau trong việc sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có qui mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả. Theo số lượng thống kê của Bộ Tài chính, tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng tương đương với vốn một doanh nghiệp loại nhỏ ở các nước như Thái Lan, Inđonesia, Malayxia. Đến nay vẫn còn 46,1%doanh nghiệp Nhà nước có số lao động dưới 100 ngàn và gần 50% doanh nghiệp Nhà nước có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa có vốn dưới 500 triệu đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status