Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản giáo dục - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản giáo dục



Sang năm 2002 tình hình không thay đổi nhiều. Hệ số huy động công suất đã tăng chậm lại đó là do hệ số huy động công suất của các máy in chỉ bằng 69,84%, chỉ tăng 0,91% so với năm 2001. Cụ thể là do: Máy in 1 màu và 4 màu công suất đã lên tới quá cao (hệ số huy động công suất đã bằng 94,63% và 97,65%) nên không thể tăng nhiều được. Trong khi đó máy in 2 màu công suất thực tế lại giảm. Chính vì vậy hệ số này của các máy in chỉ đạt 64,84% và chỉ tăng 0,91%. Điều đó làm cho hệ số huy động của các máy hoàn thiện sách tăng không đáng kể. Nhưng trong đó hệ số này của máy gấp và máy bắt sách cũng rất cao( bằng 95,15% và 96,06%) và máy khâu chỉ cũng tương đối cao bằng 85,63%.
Tóm lại, ta thấy hiện nay hệ số huy động công suất thiết kế của Nhà máy tương đối cao đó là máy in 1 màu và 4 màu, máy gấp và máy khâu thép. Vì vậy mà Nhà máy nên có những biện pháp để đầu tư thêm những máy móc loại này. Còn máy in 2 màu thì có công suất thực tế tương đối thấp so với năng lực sản xuất vì vậy cần có kế hoạch khai thác các sản phẩm có trang in 2 màu, đôi khi bắt buộc phải sử dụng để in 1 màu. Như vậy sẽ làm tăng công suất máy. Cũng từ đó mà làm tăng hệ số huy động công suất của máy in và kéo theo sự tăng thêm hệ số này của các máy hoàn thiện sách.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


bị được trang bị tương đối lớn, theo nguyên giá là 14.956.544.868 (đồng) chiếm 98,27% ; theo giá trị còn laị là 23.548.401.143 (đ) chiếm 96,5% tổng giá trị. Đây là một tỷ lệ khá lớn. Còn lại các máy móc thiết bị cho công tác phụ trợ chiếm một phần nhỏ và được trang bị cho các tổ phụ trợ theo nguyên giá là 263.226.600 (đ) chiếm 1,73 % tổng giá trị máy móc thiết bị, theo giá trị còn lại là 920.770.874 (đ) chiếm 3,5%. Hiện nay đang có xu hướng tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất vì vậy ở Nhà máy tỷ trọng máy móc thiết bị ở 2 phân xưởng sản xuất chính lớn thì cũng có nghĩa là như vậy. Tuy nhiên xu hướng nâng cao trình độ cơ giới hoá của sản xuất phụ trợ lại không được thực hiện, ở các tổ sản xuất phù trợ ta có thể thấy máy móc đã cũ và phải sử dụng nhiều lao động thủ công.
III. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian, công suất.
Phân tích tình hình sử dụng về mặt số lượng.
Để đánh giá tình hình sử dụng về mặt số lượng ta có thể dùng hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng (HSL), nó được tính như sau:
Số máy móc thiết bị đang làm việc thực tế
Số máy móc thiết bị hiện có
Có thể nói xét về vấn đề sử dụng số lượng máy móc thiết bị thì Nhà máy đang tận dụng triệt để số lượng máy móc thiết bị hiện có. Kể từ năm 2000 trở đi toàn bộ TSCĐ của Nhà máy không có loại nào đang chờ thanh lý hay không sử dụng. Như vậy, máy móc thiết bị của Nhà máy phải thật cần thiết thì mới được đầu tư và khi mua về thì được lắp đặt và đưa vào sử dụng ngay. Và Nhà máy cũng có kế hoạch thanh lý những máy móc không còn sử dụng được.
Đo đặc điểm và tính chất của ngành sản xuất công nghiệp, sản xuất sản phẩm tiêu dùng nên trong quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện bởi hệ thống dây chuyền công nghệ. Trong đó lại có nhiều giai đoạn công nghệ nhỏ, nên máy móc thiết bị của Nhà máy mang tính chuyên dùng, có nhiều chủng loại khác nhau. Mặt khác, nhiệm vụ của Nhà máy là ổn định theo thời gian và chỉ thực hiện theo một quy trình công nghệ duy nhất. Do vậy mỗi khi ký kết hợp đồng in gia công thì sau đó toàn bộ máy móc thiết bị đều được huy động vào sản xuất. Điều này không giống như các công ty xây dựng, vì sản phẩm của họ mang tính đơn chiếc, đặc thù không giống nhau nên có những loại máy chỉ được dùng cho một số công trình đặc thù, Và do vậy mà trong một khoảng thời gian khá dài chúng có thể không được huy động vào sản xuất. Còn ở Nhà máy trong những năm gần đây luôn có hệ số sử dụng số lượng của máy móc thiết bị là 1. Trong nhiều trường hợp Nhà máy đã từ chối ký hợp đồng in gia công với lý do máy móc thiết bị đã hoạt động gần hết công suất thiết kế. ở phân xưởng in Offset hầu hết các máy móc đã hoạt động đến 80% công suất thiết kế, do đó trong thời gian tới Nhà máy có xu hướng đầu tư thêm để tăng năng lực cho phân xưởng này. Dưới đây ta có thể xem tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng
Bảng 12: Tình hình sử dụng số lượng máy móc thiết bị .
Đơn vị: cái
Bộ phận
Số lợng máy hcó
Năm 2000
Năm2001
Năm 2002
Số lợng sử dụng
HSL
Số lợng sử dụng
HSL
Số lợng sử dụng
HSL
Phân xởng in Offset
13
13
1
13
1
13
1
Phân xởng hoàn thiện
22
22
1
22
1
22
1
Tổ cắt rọc
2
2
1
2
1
2
1
Tổ Chế bản
7
7
1
7
1
7
1
Tổ Cơ điện
1
1
1
1
1
1
1
Nguồn: Phòng kế hoạch vật tư
Tuy nhiên hệ số sử dụng số lượng trên vẫn chưa nói lên được nhiều điều, ta còn cần xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác.
Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt công suất
Việc sử dụng công suất máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tận dụng tối ưu công suất của máy móc thiết bị. Để đánh giá trình độ sử dụng công suất máy móc thiết bị ta có thể sử dụng hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng
KSL =
x 100%
Tổng sản lượng sản phẩm thực hiện trong kỳ
Tổng sản lượng theo thiết kế
Hệ số này phản ánh mức huy động công suất của máy móc thiết bị. Hệ số này càng tiến đến 1 thì hiệu quả sử dụng công suất của máy móc thiết bị càng cao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xác định hướng đầu tư cho máy móc thiết bị. Dưới đây ta có thể xem tình hình huy động công suất máy móc thiết bị của Nhà máy theo bảng 13 trang sau.
Theo trình tự sản xuất sản phẩm của Nhà máy thì việc in được thực hiện bắt đầu từ Tổ chế bản, tiếp theo được in bằng các máy in tại phân xưởng in Offset, sau đó sẽ được tiếp tục được đưa vào các máy hoàn thiện ở phân xưởng Hoàn thiện. Vì vậy mà công suất của toàn Nhà máy phụ thuộc vào khâu in, tức là vào công suất thực tế của các máy in. Thành phẩm của các máy in ra đến đâu thì các máy hoàn thiện sách đều có thể đáp ứng. Vì vậy việc nâng cao công suất của các máy hoàn thiện và từ đó nâng cao hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng là phụ thuộc vào việc nâng cao công suất của các máy in
Từ bảng trên, ta thấy trong 3 năm qua hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng tương đối cao và tăng năm sau cao hơn năm trước. Hệ số này thay đổi qua các năm và theo các loại máy.
Năm 2000 hệ số huy động công suất tương đối cao. Đặc biệt các máy in nói chung, hệ số huy động công suất bằng 59,4%. Nhưng hệ số này lại không đồng đề giữa các loại máy. Máy in 2 màu công suất thực tế chỉ bằng 21,82% so với năng lực sản xuất. Trong khi đó máy in 1 màu lại tương đối cao và bằng 91,42% còn máy in 4 màu cũng đạt 77,57%. Các máy còn lại hệ số này cũng không cao lắm và lại không đồng đều giữa các máy. Điều đó là do năng lực sản xuất được xây dựng giữa các máy là không cân đối. Vì vậy mà trong khi 1 số máy có hệ số huy động công suất thiết kế là tương đối cao (Máy gấp bằng 80,87%; máy bắt sách đạt 81,65%) một số máy khác hệ số này lại tương đối thấp, đặc biệt là máy khâu thép chỉ đạt 41,1 %, máy xén 3 mặt bằng 50,03%.
Sang năm 2001, tình hình này được thiện hơn. Tuy hệ số huy động công suất vẫn không đồng đều giữa các máy nhưng hệ số này đã tăng 1 cách đáng kể so với năm 2000. Hệ số huy động chung của các máy in đạt 68,93% tăng so với năm 2000 là 11,53%, đây là mức khá lớn. Đạt được điều đó là do công suất của các máy in tăng, tạo điều kiện tăng công suất thực tế của các máy hoàn thiện. Năm này công suất của máy in một màu tăng không đáng kể so với năm 2000, đó là do mức công suất này đã rất cao, gần bằng với công suất thiết kế do vậy mà tốc độ tăng chậm. Công suất thực tế của máy in 2 màu cũng tăng nhiều vì vậy mà hệ số huy động công suất thiết kế so với năm 2000 tăng 16,18%. Tuy nhiên hệ số này vẫn còn rất thấp (mới chỉ bằng 38%). Máy in 4 màu hệ số này rất cao (bằng 92,36%) tăng so với năm 2000 là 14,9%.
Còn lại các máy hoàn thiện sách có công suất thực tế tăng theo cũng tương đối lớn. Vì vậy mà hệ số huy động công suất tăng tương đối cao so với năm 2000. Nhất là máy gấp và máy bắt sách hệ số này đã lên 93,91% và 94,81% tăng so với năm 2000 là 13,04% và 13,16%. Máy khâu thép và ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status