So sánh các hệ thống biểu hiện PROTEIN tái tổ hợp - pdf 28

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

PROTEIN TÁI TỔ HỢP
PROTEIN VÀ CÔNG NGHỆ DNA TÁI TỔ HỢP
Nghiên cứu về hệ enzyme đã mở ra cánh cửa cho việc xác định các protein có khả
năng ứng dụng trong điều trị bệnh. Khi đã được xác định, những protein này cần được
nghiên cứu kỹ, bao gồm việc biểu hiện protein ở các sinh vật mẫu nhờ sử dụng các kỹ
thuật DNA. Một số protein sẽ trở thành thuốc chữa bệnh và một lượng lớn các protein
này ở dạng tinh sạch sẽ có cầu lớn.
Khi một gene được nhân dòng, protein mã hóa bởi nó có thể được sản xuất với số
lượng lớn khá dễ dàng. Một số protein tái tổ hợp như vậy được trình bày trong bảng 1.
Các phân tử có bản chất không phải là protein, có kích thước nhỏ hơn, lại cần cả nửa tá
các protein (enzyme) lần lượt xúc tác tổng hợp nên chúng.
Việc biểu hiện một gene để sản xuất lượng lớn protein gặp nhiều vấn đề rắc rối
hơn so với việc sản xuất ở quy mô phòng thí nghiệm. Càng có nhiều bản sao của một
gene trong một tế bào thì mức độ biểu hiện sản phẩm của gene càng cao. Do đó, việc đưa
gene vào một plasmid có nhiều bản sao trong mỗi tế bào sẽ cho năng suất sản phẩm cao
hơn. Tuy nhiên, plasmid có số bản sao lớn lại thường không ổn định và thường thất thoát,
đặc biệt trong các mẻ nuôi cấy ở quy mô công nghiệp có mật độ cao. Một phương pháp

để ngăn chặn sự thất thoát plasmid là đưa gene ngoại sinh cài vào nhiễm sắc thể của tế
bào chủ. Cái giá của sự ổn định gene ngoại sinh là số lượng của gene trong mỗi tế bào giờ
chỉ là 01. Các nhà khoa học đã cố gắng để đưa nhiều bản sao của một gene ngoại sinh
nằm liên tiếp nhau vào nhiễm sắc thể tế bào chủ. Tuy nhiên sự có mặt của nhiều bản sao
một gene lại tạo ra sự không ổn định do sự tái tổ hợp giữa các trình tự DNA tương đồng.
Bảng 1. một số protein tái tổ hợp
Protein Chức năng
Erythropoetin Thúc đẩy hình thành tế bào hồng cầu trong
việc điều trị bệnh thiếu máu
Yếu tố đông máu VIII (factor VIII) Giúp hình thành cục máu đông ở những
bệnh nhân bị bệnh máu khó đông
Filgrastim và sargramostim (các yếu tố tủy
thúc đẩy hình thành tế bào máu)
Làm tăng bạch cầu sau khi xạ trị hay ghép
tạng
Isulin Chữa trị bệnh đái tháo đường (diabetes)
Đặng Xuân Nghiêm-HUABIOTECH-Copyright©12/2010- all rights reserved
Reference: David P. Clark and Nanette J. Pazdernik. 2010. Biotechnology-applying the genetic revolution. Academic Press
2

Interferon (alpha) Trị bệnh viêm gan B và C, bệnh mụn rộp ở
cơ quan sinh dục, một số ung thư bạch cầu
và ung thư khác
Interferon (beta) Điều trị các chứng sơ cứng. Clerosis
Interferon (gamma) Điều trị u hạt
Interleukin-2 Tiêu diệt tế bào ung thư
Samato tropin Điều trị bệnh thiếu hụt hormone sinh
trưởng
t-PA (protein hoạt hóa plasminogen mô) Làm tan cục máu đông để ngừa và giảm tác
hại của cơn đau tim.

BIỂU HIỆN CÁC PROTEIN CỦA SINH VẬT NHÂN CHUẨN Ở VI KHUẨN
Việc thành bại khi biểu hiện một gene tái tổ hợp phụ thuộc vào một số yếu tố.
Hiển nhiên là các gene từ vi khuẩn thường được biểu hiện thành công khi đưa một vector
nhân dòng (cloning vector) mang gene vào trong các tế bào vi khuẩn, miễn là chúng nằm
sau các promoter vi khuẩn thích hợp. Các plasmid đặc biệt chuyên dụng cho việc biểu
hiện gene (expression vector) thường được sử dụng để tăng cường biểu hiện gene. Chúng
có một promoter mạnh điều khiển sự biểu hiện của gene chuyển vào. Các vector biểu
hiện cũng mang các gene kháng kháng sinh cho phép chọn lọc vector và do đó chọn lọc
protein tái tổ hợp. Ngoài ra, chúng phải có vùng khởi đầu sao chép (origin of replication)
thích hợp với tế bào chủ.
Việc biểu hiện các protein của sinh vật nhân chuẩn thường rắc rối hơn. Mặc dù
các tế bào nhân chuẩn có thể được sử dụng để biểu hiện các protein này, vi khuẩn lại dễ
nuôi và dễ thực hiện các thao tác gene hơn. Do vậy, luôn có nhu cầu biểu hiện các protein
từ sinh vật nhân chuẩn ở các tế bào vi khuẩn. Bởi vì các promoter của sinh vật nhân
chuẩn không hoạt động ở tế bào vi khuẩn nên cần cung cấp một promoter vi khuẩn.
Ngoài ra, các vi khuẩn không thể cắt các đoạn intron ra khỏi mRNA; do đó người ta phải
sử dụng quy trình chuẩn để nhân dòng gene từ cDNA tổng số không chứa intron. Trong
thực tế, gene ở dạng cDNA được sử dụng rộng rãi, cả trong hệ thống biểu hiện tế bào
nhân chuẩn, không chỉ để tránh rắc rối trong việc xử lý mRNA mà còn bởi vì lượng DNA
ít hơn rất nhiều nên dễ thao tác hơn.
Đặng Xuân Nghiêm-HUABIOTECH-Copyright©12/2010- all rights reserved
Reference: David P. Clark and Nanette J. Pazdernik. 2010. Biotechnology-applying the genetic revolution. Academic Press
3

Thậm chí nếu một gene tái tổ hợp được phiên mã nhiều, việc dịch mã để tạo ra
protein tương ứng có thể bị hạn chế ở giai đoạn tổng hợp protein. Các phân tử mRNA
được dịch mã với hiệu quả khác nhau, liên quan đến một số yếu tố:
(a) lực của tương tác giữa ribosome và vị trí bám của ribosome
(b) Độ bền của mRNA và/hay cấu trúc bậc hai của mRNA
(c) Việc sử dụng các codon (codon usage)
Ngoài các vector biểu hiện chuẩn, các vector tinh vi được tạo ra để tối ưu những
khía cạnh khác của việc biểu hiện protein. Trong chương này chúng ta sẽ thảo
luận về việc sử dụng các vector dịch mã và các vector dung hợp để làm tăng
cường tổng hợp một protein tái tổ hợp từ một gene chuyển.

VECTOR BIỂU HIỆN DỊCH MÃ
Ribosome vi khuẩn bám vào mRNA thông qua việc nhận biết vị trí bám
ribosome (ribosome binding site-RBS - ở vi khuẩn được biết như là trình tự
Shine-Dalgarno). RBS bắt cặp bổ sung với trình tự AUUCCUCC trên phân tử
rRNA 16S của tiểu phần bé ribosome. Trình tự RBS càng giống với trình tự bảo
thủ ( UAAGGAGG) thì sự lắp ráp ribosome vào mRNA càng hiệu quả và chặt
chẽ. Nói chung, nó làm tăng hiệu quả của quá trình khởi đầu dịch mã. Ngoài ra để
việc dịch mã xảy ra tối ưu, RBS phải được thiết kế nằm đúng khoảng cách tới bộ
ba mã khởi đầu, AUG.
Vector biểu hiện (expression vector) được thiết kế để tối ưu việc biểu
hiện gene ở mức độ phiên mã. Tuy nhiên, vector biểu hiện dịch mã (translation
expression vector) có thể được thiết kế để tối đa hóa quá trình khởi đầu dịch mã.
Những vector này mang một trình tự RBS bảo thủ và một mã bộ ba khởi đầu
ATG ở vị trí tối ưu (cách 8 bp) về phía sau của RBS. Gene cần chuyển vào được
chèn vào vị trí tạo dòng gối lên bộ ba mã khởi đầu. Enzyme giới hạn NcoI rất
thuận tiện bởi vì nó nhận biết trình tự C/CATGG, bao gồm cả ATG. Do đó có thể
chèn một gene vào sao cho codon ATG trùng với ATG của vector biểu hiện dịch
mã. Gene được cắt bằng NcoI ở đầu 5’ của nó và bằng một enzyme giới hạn thuận
tiện khác ở đầu 3’ của nó. Nếu cần thiết, Một vị trí cắt của NcoI nhân tạo có thể
được đưa vào gene thông qua đột biến điểm định hướng bằng PCR.
Đặng Xuân Nghiêm-HUABIOTECH-Copyright©12/2010- all rights reserved
Reference: David P. Clark and Nanette J. Pazdernik. 2010. Biotechnology-applying the genetic revolution. Academic Press
4


DZ5o1IiP8hhO8tx
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status