Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu xây dựng bản đồ tính dễ bị tổn thương cho lưu vực sông Nhuệ Đáy trên địa bàn thành phố Hà Nội - Pdf 10


LUẬN VĂN THẠC SỸ
Nghiên cứu xây dựng bản
đồ tính dễ bị tổn thương
cho lưu vực sông Nhuệ
Đáy trên địa bàn thành
phố Hà Nội

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI LƯU
VỰC SÔNG NHUỆ ĐÁY, PHẦN THUỘC ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI 9
1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên 9
1.1.1. Vị trí địa lý 9
1.1.2. Địa hình địa mạo 10
1.1.3. Đặc điểm thổ nhưỡng 13
1.1.4. Đặc điểm khí hậu 13
1.1.5. Đặc điểm thủy văn 17
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 22
1.2.1. Dân cư 22
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 23
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU TỔN THƯƠNG VÀ CÁC
BƯỚC ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO LŨ, NGẬP LỤT 25
2.1. Các khái niệm về tính dễ bị tổn thương 25
2.2. Sự cần thiết đánh giá tính dễ bị tổn thương do lũ 27
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước 29
2.4. Các bước đánh giá tính dễ bị tổn thương do lũ, ngập lụt 31
2.5. Giới thiệu mô hình MIKE FLOOD 33

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Bản đồ lưu vực hệ thống sông Nhuệ Đáy 11
Hình 2.1 Các bước xác định tính tổn thương lũ 32
Hình 3.1. Hộp thoại khai báo các thông số lưu vực 45
Hình 3.2. So sánh giữa kết quả tính toán hiệu chỉnh mô hình mưa dòng chảy
với số liệu lưu lượng thực đo, trạm Ba Thá 47
Hình 3.3. So sánh giữa kết quả tính toán hiệu chỉnh mô hình mưa dòng chảy
với số liệu lưu lượng thực đo, trạm Hưng Thi 47
Hình 3.4. So sánh giữa kết quả tính toán kiểm định mô hình mưa dòng chảy
với số liệu lưu lượng thực đo, trạm Ba Thá 48
Hình 3.5. So sánh giữa kết quả tính toán kiểm định mô hình mưa dòng chảy
với số liệu lưu lượng thực đo, trạm Hưng Thi 49
Hình 3.6. Sơ đồ mạng sông trong MIKE 11 50
Hình 3.7. Sơ đồ mạng lưới thủy lực 1D 51
Hình 3.8. Giới hạn miền tính toán 2D 53
Hình 3.9. Lưới tính khu vực nghiên cứu 53
Hình 3.10. Kết nối trong mô hình MIKE FLOOD 54
Hình 3.11. Đường quá trình mực nước thực đo và tính toán tại trạm Phủ Lý
(Trận lũ 10/2007) 54
Hình 3.12. Đường quá trình mực nước thực đo và tính toán tại trạm Phủ Lý
(Trận lũ 11/2008) 55
Hình 3.13. Đường quá trình mực nước thực đo và tính toán tại trạm Ba Thá
(Trận lũ 11/2008) 56
Hình 3.14. Đường quá trình mực nước thực đo và tính toán tại trạm Hà Đông
(Trận lũ 11/2008) 56
Hình 3.15. Quá trình mưa giờ thực đo trận mưa thiết kế 1% 58
Hình 3.16a. Bản đồ ngập lụt lưu vực sông Nhuệ- Đáy (phần thuộc thành phố Hà
Nội) ứng với mưa tần suất 1% tại trạm Láng 59
Hình 3.16b. Bản đồ ngập lụt lưu vực sông Nhuệ- Đáy (phần thuộc thành phố
4

vực sông 46
Bảng 3.4. Kết quả hiệu chỉnh mô hình mưa - dòng chảy 47
Bảng 3.5. Kết quả kiểm nghiệm mô hình mưa - dòng chảy 48
Bảng 3.6. Các biên sử dụng trong mô hình 51
Bảng 3.7. Các kết nối đã thực hiện trong MIKE FLOOD 53
Bảng 3.8. Diện tích ngập lớn nhất tính toán và thực tế trong trận mưa 2008
(lưu vực sông Nhuệ Đáy, phần thuộc thành phố Hà Nội) 57
Bảng 3.9: Giá trị mưa 2 ngày lớn nhất ứng với các tần suất thiết kế 58
Bảng 3.10: Trọng số của các yếu tố tạo lên nguy cơ lũ 63
Bảng 4.1: Tính dễ bị tác động của nhóm sử dụng đất 68
Bảng 4.2: Ma trận tính toán sự lộ diện của các đối tượng trước lũ, ngập lụt 69
Bảng 4.3. Ma trận tính toán mức độ tổn thương do lũ, ngập lụt 75
Bảng 4.4: Thống kê diện tích tổn thương theo các cấp độ 75
6

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HD: Hydraulic Dynamic (Thủy động lực)
IPCC: Intergovermental Panel on Climate Change (Ban Liên chính phủ về
Biến đổi khí hậu)
ISDR: International Strategy for Disaster Reduction (Chiến lược giảm nhẹ
thiên tai quốc tế)
KTTV: Khí tượng thủy văn
NAM: NedbØr – AfstrØmning – Model (Mô hình mưa – dòng chảy)
RR: Rainfall - Runoff (mưa – dòng chảy)
SAR: Second Assessment Report (Báo cáo đánh giá lần II)
TAR: Third Assessment Report (Báo cáo đánh giá lần III)
UNDP: United Nations Depvelopment Programme (Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc)
UNESCO: United Nations Emducation, Scientific and Cultural Organization (Tổ

nghiên cứu là rất cần thiết. Để đánh giá được tính dễ bị tổn thương do lũ lụt tác
động tới kinh tế - xã hội thì hướng tiếp cận đa ngành trong công tác quản lý tổng
hợp rủi ro thiên tai là cần thiết để xây dựng các giải pháp nhằm giảm nhẹ tác hại
của lũ gây ra. Đây cũng là lý do dẫn đến sự hình thành luận văn “ Nghiên cứu xây
dựng bản đồ tính dễ bị tổn thương cho lưu vực sông Nhuệ Đáy trên địa bàn
thành phố Hà Nội”. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học, thực tiễn cho các nhà
8

quản lý, các nhà hoạch định chính sách xác định chiến lược phát triển bền vững và
đảm bảo an ninh xã hội.
Cấu trúc luận văn gồm có:
Mở đầu
Chương 1. Đặc điểm địa lý tự nhiên và kinh tế xã hội lưu vực sông Nhuệ
Đáy, phần thuộc địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 2. Tổng quan về các nghiên cứu tổn thương và các bước đánh giá
tính dễ bị tổn thương do lũ, ngập lụt
Chương 3. Ứng dụng mô hình MIKE FLOOD mô phỏng ngập lụt lưu vực
sông Nhuệ Đáy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 4. Xây dựng bản đồ tính dễ bị tổn thương do ngập lụt lưu vực sông
Nhuệ Đáy, trên địa bàn thành phố Hà Nội
Kết luận và giải pháp
Kiến nghị về hướng nghiên cứu tiếp theo
9

CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI LƯU VỰC
SÔNG NHUỆ ĐÁY, PHẦN THUỘC ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Lưu vực sông Nhuệ- Đáy nằm ở hữu ngạn sông Hồng trong phạm vi từ

Ngoài ra, trên lưu vực còn có nhiều các sông nhỏ, là phụ lưu của sông Đáy
hoặc sông Nhuệ, một số phụ lưu chính như: Sông Bùi (Hòa Bình, Hà Nội); sông
10

Thanh Hà (Mỹ Đức); sông Hoàng Long (Ninh Bình); sông Vân, sông Sắt, sông Đào
(Nam Định)
Phần lớn diện tích thành phố Hà Nội thuộc lưu vực sông Nhuệ Đáy, trừ Quận
Gia Lâm, một phần Quận Long Biên, huyện Mê Linh và Sóc Sơn. Khu vực nghiên
cứu nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
có vị trí từ 20
0
34’ đến 21
0
17’ độ vĩ Bắc và 105
0
17’ đến 106
0
00’ kinh độ Đông (Hình
1.1). Có ranh giới tự nhiên là sông Hồng ở phía Bắc và Tây. Tổng diện tích thủ đô
Hà Nội sau khi mở rộng là: 3344.7 km
2
, trong đó, diện tích thuộc lưu vực Nhuệ Đáy:
2361 km
2
. Bao gồm: 10 quận, 15 huyện, với một vị trí chiến lược về an ninh quốc
phòng, là trung tâm văn hóa - xã hội, kinh tế, chính trị, giáo dục - khoa học của cả
nước, vấn đề ngập lụt và tổn thương do ngập lụt cần phải được chú trọng nghiên
cứu.
1.1.2. Địa hình địa mạo
Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, lưu vực Nhuệ Đáy nằm trải dài theo

chịt. Có thể chia đồng bằng thành 4 khu vực có đặc điểm khác nhau: Vùng đồng
bằng phía Bắc, Vùng đồng bằng trung tâm, Vùng đồng bằng phía Nam, Vùng đồng
bằng thung lũng.
Bề mặt lưu vực có hướng dốc thay đổi, đầu nguồn hệ thống sông hướng Bắc
- Nam; trung và hạ nguồn hướng Tây Bắc - Đông Nam.
Thượng lưu hệ thống sông uốn khúc, quanh co, hẹp và dốc, nhiều thác
ghềnh, nước chảy xiết, là nguy cơ tạo nên các hiện tượng xói lở, lũ quét Trung lưu
và hạ lưu lòng sông được mở rộng, dòng sông chảy chậm, khả năng thoát nước kém
dẫn đến tình trạng ngập lũ mỗi khi xuất hiện mưa lớn.
Địa hình khu vực nghiên cứu chủ yếu là vùng đồng bằng nhờ phù sa bồi đắp
(chiếm 4/5 diện tích tự nhiên toàn khu vực), độ cao địa hình giảm dần theo hướng
từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ +5 đến +20m so với
mực nước biển. Phía Tây Bắc là vùng núi Ba Vì là thượng nguồn của sông Tích
(một nhánh của sông Đáy), phía Đông là khu vực nội thành thành phố Hà Nội, với
mật độ dân cư và các công trình dày đặc, cũng là khu vực thường xuyên xảy ra ngập
lụt khi mưa lớn. Phía Tây Nam là khu vực các huyện Ứng Hòa, Phú Xuyên, Thường
Tín đây là vùng trũng nhất.
Ngoài địa hình đồng bằng thì khu vực nghiên cứu cũng có một dạng địa hình
là địa hình đồi núi. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Ba Vì, Quốc
Oai, Mỹ Đức với các đỉnh như Ba Vì cao 1281m, Gia Dê 707m, Thiên Trù 378m
13

Chuyển tiếp dưới chân dãy núi cao là những dải đồi có độ cao 200-250m, rồi thấp
dần với độ cao 25 - 150m ở ven rìa đồng bằng. [3]
1.1.3. Đặc điểm thổ nhưỡng
Do nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên đất trong khu vực chủ
yếu là đất phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Đáy bồi đắp nên. Mặc dù được
bao bọc bởi các đê sông Hồng, sông Đáy song hầu như hàng năm phần lớn diện tích
đất canh tác ít nhiều đều được tưới bằng nước phù sa lấy từ các cống tự chảy hoặc
các trạm bơm. Quá trình bồi tụ, hình thành và phát triển của các nhóm đất ở từng

tháng có nhiệt độ cao nhất trong năm trung bình 165,4 giờ đối với Láng và 175,6 giờ
đối với Sơn Tây. Còn vào các tháng mùa đông (II - III) có nhiều ngày âm u mưa
phùn nên số giờ nắng trung bình một năm là ít khoảng 42,7 giờ đối với Láng; 40,9
giờ đối với Sơn Tây.
Nhiệt độ
Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối tới 42,8
0
C, thấp nhất tuyệt đối chỉ
2,7
0
C, trung bình năm dao động trong khoảng 23  24
0
C với cơ chế hoàn lưu gió đã
tạo ra sự phân hóa rõ rệt theo hai mùa:
- Mùa nóng từ tháng V-X, có nhiệt độ trung bình tháng từ 24,0
0
C đến 29,3
0
C.
Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng VII.
- Mùa lạnh từ tháng XI-IV, có nhiệt độ trung bình tháng từ 16,6
0
C đến 21,6
0
C
Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng chung của sự biến đổi khí hậu toàn
cầu, nhiệt độ không khí có xu hướng tăng cao nên nền nhiệt độ không khí trung bình
năm của những năm gần đây cũng tăng lên (như năm 1998 là 25,1
0
C).

Mùa khô thường kéo dài 7 tháng, từ tháng XI đến tháng IV năm sau với tổng
lượng mưa chỉ chiếm khoảng 14,7% lượng mưa của cả năm. Tháng ít mưa nhất
thường là tháng XII hoặc tháng I với lượng mưa chỉ chiếm trên dưới 1,2% tổng
lượng mưa năm. Ba tháng liên tục mưa ít nhất là các tháng XII, I và II. Tổng lượng
mưa của ba tháng này chỉ chiếm khoảng 4,1% tổng lượng mưa năm.
Nguyên nhân gây mưa lớn ở khu vực nghiên cứu có nhiều: bão, áp thấp nhiệt
đới, rãnh áp thấp nóng phía Tây bị nén bởi cao áp phía Bắc kết hợp với sự xâm lấn
của áp thấp vịnh Bắc Bộ và cao áp Thái Bình Dương, dải hội tụ nhiệt đới, bão kết
hợp với không khí lạnh và xoáy thấp vịnh Bắc Bộ, đường đứt kết hợp với rãnh áp
thấp nóng phía Tây bị nén và xoáy thuận tầng cao. Ngoài ra, hoạt động của gió mùa
Tây Nam hoặc Đông Nam cũng gây ra những trận mưa rào, mưa dông có cường độ
lớn. Hàng năm, khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của 8  10 cơn bão hoặc áp
thấp nhiệt đới. 16

Bốc hơi
Lượng bốc hơi phụ thuộc rất nhiều vào chế độ nắng vào gió và phụ thuộc vào
lượng mưa trên địa bàn tỉnh. Lượng bốc hơi trung bình năm ở Hà Nội là 978,9 mm,
lượng bốc hơi trung bình tháng ở Hà Nội từ 82,6 – 98,2 mm. Các tháng có lượng
bốc hơi lớn nhất trong năm là các tháng trong mùa hè và đầu mùa đông (V-XII) do
có lượng mưa lớn và số giờ nắng nhiều.
- Các tháng có lượng bốc hơi ít nhất là tháng I-IV, lượng bốc hơi trung bình
tháng từ 57,2 - 69,6 mm.
- Các tháng có lượng bốc hơi lớn nhất là VI-VII, lượng bốc hơi trung bình
tháng từ 98,2 - 110,1 mm.
Sương mù
Số ngày có sương mù ở Hà Nội tương đối ít, trung bình năm chỉ là 10 ngày.
Tháng có số ngày có sương mù nhiều nhất là tháng XII và tháng I, trung bình tháng

XII
Năm
Cao
kỷ lục
33,2
33,9
36,8
39,1
42,8
39,9
40,3
36,8
37,8
36,4
36,3
36,5
42.8
TB tối
cao
19.3
19.9
22.8
27.0
31.5
32.6
32.9
31.9
30.9
28.6
24.3

5,4
2.7
Lượng
mưa
18.6
26.2
43.8
90.1
188.5
239.9
288.2
318.0
265.4
130.7
43.4
23.4
1676.2
Bảng 1.2. Một số các yếu tố khí tượng khác tại trạm Láng (1961-2010) [2]
Tháng
N. độ
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X

17
25
17
Số giờ
nắng
73
48.8
47.2
91
180
167.9
189.7
171
173
163,6
13 9
121,.5
1562
Vận tốc
gió TB
2,0
2,2
2,1
2,2
2,2
1,9
1,9
1,7
1,6
1,7

NE
NE
NE
N

1.1.5. Đặc điểm thủy văn
Lưu vực sông Nhuệ Đáy nằm bên bờ hữu sông Hồng gồm có 2 sông chính là
sông Đáy và sông Nhuệ. Ngoài ra, nối sông Đáy với sông Nhuệ còn có các sông nhỏ
như sông La Khê (qua thành phố Hà Đông), sông Vân Đình, sông Duy Tiên, sông
Ngoại Độ v.v.
Sông Đáy phân lưu tự nhiên của sông Hồng, rút nước từ sông Hồng ra vịnh
Bắc Bộ. Sông Đáy chảy gọn trong vùng đồng bằng Bắc Bộ với dòng sông chảy
song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng. Sông Đáy có chiều dài khoảng
18

240 km
2
và lưu vực có diện tích 7665 km
2
chảy trên địa bàn các tỉnh thành Hà
Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định.
Là một phân lưu của sông Hồng, sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địa
phận Hà Nội giữa huyện Phúc Thọ và huyện Đan Phượng. Quãng sông này còn có
tên là sông Hát hay Hát Giang. Chỗ sông Hồng tiếp nước là Hát Môn.
Lưu lượng của sông bất thường, vào mùa mưa lũ thường rất lớn, với đặc điểm
dòng sông quanh co uốn khúc do vậy dễ tạo ra những ghềnh nước lớn. Đến mùa
khô thì lòng sông có chỗ cạn lội qua được nên thượng lưu sông Đáy thuyền bè
không dùng được.
Xuôi đến Vân Đình thì lòng sông rộng ra, lưu lượng chậm lại nên có thể đi
thuyền được. Đến địa phận huyện Mỹ Đức, sông Đáy tiếp nhận dòng suối

Lương Cổ ở khu vực thành phố Phủ Lý. Về mùa kiệt cống Liên Mạc luôn mở để lấy
nước sông Hồng vào sông Nhuệ, còn về mùa lũ chỉ mở khi mực nước sông Hồng
dưới báo động cấp I và trong đồng có nhu cầu cấp nước. Cống Lương Cổ về mùa lũ
luôn luôn mở để tiêu nước và chỉ đóng lại khi có phân lũ qua đập Đáy.
Nối sông Đáy với sông Nhuệ còn có các sông nhỏ như sông La Khê (qua
thành phố Hà Đông), sông Vân Đình, sông Duy Tiên, sông Ngoại Độ và một số
sông nhỏ khác tạo thành một mạng lưới tưới tiêu tự chảy cho hệ thống khi điều kiện
cho phép . Sông Duy Tiên dài 21 km, mặt cắt sông rất rộng có chỗ lên tới gần 100m
nhưng lại rất nông do ít được nạo vét, cao độ đáy hiện nay cao hơn thiết kế từ 2,0m
đến 3,0m. Sông Vân Đình dài 11,8 km nối sông Nhuệ với sông Đáy qua cống Vân
Đình. Sông La Khê dài 6,8 km được nối với sông Đáy qua công La Khê.
Mạng lưới sông, các kênh tiêu trong khu vực nghiên cứu khá phức tạp, lại có
các hướng tiêu thoát khác nhau, vì thế để có thể mô phỏng được vấn đề ngập lụt một
cách chính xác cần phải xây dựng một hệ thống mạng tính toán bao quát được hết
các chế độ thủy văn, các điều kiện tiêu thoát của cả sông Đáy, sông Nhuệ, các sông
nối sông Đáy với sông Nhuệ và toàn bộ các kênh tiêu nội đồng.
Ngoài hai con sông lớn đó, khu vực nghiên cứu còn có nhiều dòng chảy khác,
tuy nhỏ và ngắn, song gắn chặt với lịch sử lâu đời của Hà Nội. Đó là sông Tô Lịch,
gắn với sự hình thành của Hà Nội từ hơn 1500 năm trước. Dòng chảy cũ liền với
sông Hồng ở đầu phố chợ Gạo đã bị lấp từ đầu thế kỷ 20, nay chỉ còn đoạn chảy
giữa phố Thuỵ Khuê - Hoàng Hoa Thám, lên đến chợ Bưởi, rồi chảy ngoặt về phía
20

Nam Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, xuôi về Cầu Bươu, hợp với sông Nhuệ, sông Thiên
Đức, sông Nghĩa Trụ, sông Cheo Reo, Ngũ Huyện Giang, sông Kim Ngưu (Bảng
1.3)
Các sông trên khu vực nghiên cứu đa số bị tình trạng lấn chiếm, đổ phế thải
hai bên bờ, cũng như bùn đất theo nước thải chảy xuống làm cho hẹp lại và nông.
Hiện Hà Nội đang thực hiện các dự án "xanh hóa" các con sông với các biện pháp
như kè bờ, nạo vét, xây dựng hệ thống lọc nước thải trước khi đổ xuống sông.

3 - 4

S. Nhuệ
29,0 1,53
S. Đáy
250,0
Khu vực nghiên cứu cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, mang dấu
vết của các con sông cổ. Toàn thành phố có trên 80 hồ và ao (tính kể cả những ao có
diện tích mặt nước từ 1ha trở lên). Trong khu vực nội thành, Hồ Tây, Hồ Trúc. Cùng
với Hồ Tây, trong khu vực Hà Nội còn có các hồ nổi tiếng như Trúc Bạch, Thiền
Quang, Thủ Lệ và các đầm lớn như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn - Đồng Mô,
Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn (Bảng 1.4). Các hồ tự nhiên
này là nơi trữ nước tạm thời mỗi khi mưa lớn, có chức năng điều tiết nước bên cạnh
các chức năng khác về sinh thái, cảnh quan, môi trường. Tuy nhiên, mạng lưới sông
ngòi, đầm hồ khu vực Hà Nội ngày càng bị thu hẹp do sự phát triển đô thị hoá, thậm
chí rất nhiều hồ đã bị lấp, phần lớn các hồ hiện nay bị ô nhiễm nghiêm trọng từ chất
thải sinh hoạt và công nghiệp.
21

Bảng 1.4. Các hồ chính trên địa bàn Thành phố Hà Nội
TT
Tên Hồ
Diện
tích

Hồ Trúc Bạch
26.0
36
Hồ Linh Đàm
67.5
68
Đầm Long
50.0
4
Hồ Giảng Võ
6.0
37
Hồ Định Công
17.0
69
Hồ Cẩm Quỳ
77.2
5
Hồ Thủ Lệ
12.0
38
Hồ Yên Sở
145.6
70
Hồ Yên Thịnh
29.7
6
Hồ Ngọc Khánh
3.5
39

Đầm Dương
124.1
10
Hồ Đầm
0.7
43
Đầm Đỗi
14.3
75
Hồ Tân Xã
58.2
11
Hồ Nghĩa Đô
5.2
44
Hồ sinh thái Vĩnh
Hưng
5.0
76
Hồ Lụa
26.3
12
Ao Cầu
0.2
45
Hồ Đền Lừ
4.8
77
Hồ Suối Ngọc
10.4

0.6
49
Hồ Quảng Bá
6.1
81
Hồ Dương Kỳ
6.2
17
Hồ Linh Quang
3.0
50
Hồ Bải Tảo
5.8
82
Hồ Tiên Sa
20.0
18
Hồ Huy Văn
1.3
51
Hồ Bụng Cá
3.4
83
Hồ Văn Sơn
167.0
19
Hồ Xã Đàn
4.5
52
Hồ Lấn lớn

mối giao thông, dễ thông thương với bên ngoài.
Có nguồn và chất lượng lao động khá tốt và đồng đều, có tiềm lực khoa học
kỹ thuật lớn mạnh, có nền tảng và điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật tốt cùng với
nguồn tài nguyên du lịch dồi dào, có khả năng thu hút và hấp dẫn lượng khác du lịch
trong và ngoài nước. Đặc biệt hội tụ đầy đủ điều kiện và tiềm lực hội nhập với các
khu vực tam giác phát triển của Châu Á và trên thế giới.
1.2.1. Dân cư
Toàn bộ lưu vực sông Nhuệ Đáy có diện tích tự nhiên 7665 km
2
, chiếm
khoảng hơn 2% diện tích cả nước. Các tỉnh trên lưu vực sông Nhuệ- Đáy bao gồm 5
tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hà Nam, Hoà Bình, Ninh Bình, Nam Định. Dân số của 5
22
Hồ Kim Liên
5.0
55
Hồ Mễ Trì
4.5
87
Hồ Cửa Khâu
15.8
23
Hồ Hào Nam
1.3
56
Hồ Hình Thang
4.2
88
Hồ Long Trì
2.2

60
Hồ Lấn Đoài
0.8

Tổng
5587.3
28
Hồ Bảy Mẫu
23.1
61
Đầm Đông Trạch
3.1
29
Hồ Thiền Quang
5.0
62
Đầm Lớn
79.3
30
Hồ Hai Bà Trưng
1.3
63
Hồ Vĩnh Ninh
3.0
31
Hồ Thanh Nhàn 1
16.0
64
Hồ Đồng Mô - Ngải
Sơn

ngày nay vùng hữu ngạn sông Hồng vẫn là một vùng kinh tế - xã hội phát triển nhất
châu thổ đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế cả
nước nói chung, ở lưu vực sông Nhuệ Đáy nói riêng phát triển khá mạnh mẽ.
Trong lưu vực này đã hình thành một mạng lưới đô thị phát triển với thủ đô Hà Nội
(đô thị loại đặc biệt), thị xã Sơn Tây, và nhiều các quận, huyện khác.
Khu vực kinh tế: dịch vụ, công nghiệp và xây dựng là điểm mạnh của vùng.
Tổng sản phẩm nội địa của vùng (GRDP) năm 2011 đạt khoảng 280 nghìn tỷ đồng,
trong đó dịch vụ chiếm 52,6%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41,8% còn lại là
nông - lâm nghiệp, thủy sản chiếm 5,6% [2].
Tình hình kinh tế khu vực nghiên cứu: trong nhiều năm qua ngành công
nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Các khu công nghiệp, cơ sở công
nghiệp đã được hình thành, phát triển và không ngừng được mở rộng với quy mô
lớn hơn và nhiều ngành nghề đa dạng hơn. Tính đến hết năm 2011, Hà Nội có
99.927 cơ sở sản xuất, kinh doanh, trong đó số các cơ sở thuộc khu vực kinh tế
ngoài nhà nước là 99.447 cơ sở (99,5%). Các làng nghề cũng được khôi phục, phát
triển góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, góp
phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng theo xu thế hiện đại hóa, cơ cấu kinh
tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp đã hình thành rõ nét. Nền công nghiệp và
dịch vụ tăng trưởng nhanh với chất lượng và trình độ càng ngày càng được nâng
cao. Quan hệ giữa các ngành kinh tế bước đầu có sự thay đổi về chất.
24

Ngày 22/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1878/QĐ-TTG
phê duyệt: Nhiệm vụ đề án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội mở rộng đến
năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Với tình hình phát triển xã hội như hiện nay, dự báo đến năm 2030 dân số Hà
Nội sẽ đạt xấp xỉ 9,1 triệu người (trong đó thành thị chiếm 6,1 triệu người, nông
thôn chiếm 3 triệu người) với tỉ lệ đô thị hóa đạt 68,8%, tầm nhìn đến năm 2050 đạt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status