Tài liệu Luận văn: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay - Pdf 10


1
Luận văn
Giải pháp mở rộng và
nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng của NHTM
ở Việt Nam hiện nay

2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Nội dung bài viết:
Phần I : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại.
I - Tín dụng và các loại tín dụng.
1 - Khái niệm
2 - Đặc điểm
3 - Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng.
4 - Chức năng và vai trò của tín dụng.
5 - Các loại tín dụng.
II - Ngân hàng thương mại và vai trò của tín dụng.
1 - Ngân hàng thương mại
2 - Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng.
3 - Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
NHTM.
Phần II : Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại
ở Việt Nam hiện nay.
I - Tổng quan về hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
II - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt

quả nhất.
Tuy hình thành chưa lâu, nhưng việc huy động vốn của hệ thống
NHTM trong dân cư đã đạt được những thành quả nhất định. Các ngân hàng
đã không ngừng mở rộng huy động vốn và tiến hành cho vay, đầu tư, cung
cấp một lượng vốn lớn cho công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, do còn
thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả quả hoạt động tín dụng của các NHTM còn
chưa cao : số vốn huy động còn thấp và sử dụng chưa có hiệu quả, tỷ lệ nợ
quá hạn cao là mối nguy hiểm cho các ngân hàng, vốn ứ đọng trong khi nhu
cầu về vốn của nền kinh tế là rất lớn.
Vì vậy để có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động tín dụng của hệ thống
NHTM đồng thời có thể tìm ra một giải pháp cho việc mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động của NHTM, em đã chọn đề tài : “ Giải pháp mở rộng và
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay.

PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I - TÍN DỤNG VÀ CÁC LOẠI TÍN DỤNG.
1- Khái niệm.
Tín dụng là là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới
hình thái tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu (gọi là người cho vay) sang
người sử dụng (gọi là người đi vay) để sau một thời gian nhất định thu hồi
về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.

4
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai chủ thể
(người đi vay và người cho vay) trong đó hai bên thoả thuận một thời hạn nợ
và mức lãi cụ thể.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động của các nguồn
vốn từ nời thừa tới nơi thiếu.
Trong thực tế, tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng. Nhưng dù

doanh. Do đặc điểm vốn tự có thường không đủ nên doanh nghiệp thường
phải vay thêm vốn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với các hộ gia đình, những nhu cầu chi tiêu lớn vượt quá khả năng
thu nhập hiện tại (ví dụ mua nhà, xe hơi) hoặc những chi tiêu bất thường
cũng làm nảy sinh nhu cầu vay mượn.
Nhà nước và các chính quyền địa phương nhiều khi cũng có những
khoản tiền lớn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, trường học,
bệnh viện . . . hoặc để khắc phục thiên tai, bù đắp bội chi ngân sách cũng
phải vay mượn.
3.2 . Nguồn vốn cho vay.
a) Từ nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi xuất hiện trong quá trình tái sản
xuất.
Trong quá trình tái sản xuất, có những doanh nghiệp thừa vốn một cách
tương đối :
Do đặc điểm của quá trình chu chuyển vốn cố định, giá trị TSCĐ
thường không được chuyển hết và chi phí sản xuất trong một chu kỳ sản
xuất kinh doanh mà được khấu hao dần dần. Quá trình khấu hao tạo nên một
số tiền tạm thời nhàn rỗi trong quỹ khấu hao.
Do quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động có những khi
doanh nghiệp đã bán được hàng, thu được tiền những chưa phải dự trữ
nguyên vật liệu hay chưa phải trả lương cho cán bộ công nhân viên do đó có
một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi trong quỹ tiền mặt hoặc quỹ lương của
doanh nghiệp.
Cuối cùng là lợi nhuận được tích luỹ lại trong quỹ tích luỹ của doanh
nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng chưa dùng đến.
b) Từ nguồn tiền nhàn rỗi thu được dưới dạng tiền gửi tiết kiệm của
mọi tầng lớp trong xã hội.
Nguồn tiền nhàn rỗi này hình thành từ khoản tiết kiệm được trích ra từ
thu nhập của người dân và được xem là bộ phận quan trọng nhất trong vốn
tín dụng của một quốc gia.

Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển đã thúc đẩy việc mở rộng
thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế.
Điều này làm giảm khối lượng giấy bạc trong lưu thông cũng như các chi

7
phí lưu thông giấy bạc ngân hàng như chi phí in giấy bạc, chi phí bảo quản
tiền, chi phí vận chuyển . . .
c) Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Thông qua quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng góp phần
phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như : khối lượng tiền
tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ… từ đó giúp ta có
cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối trong nền kinh tế, ví dụ quan hệ
giữa tiết kiêm và tiêu dùng.
Qua việc cho vay của ngân hàng, ngân hàng luôn thực hiện quá trình
kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những
vi phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước.
Ngoài ra, qua việc thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo điều kiện để
kiểm soát bằng tiền đối với các đơn vị kinh tế, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng
quát về cấu trúc tài chính của các đơn vị.
4.2 . Vai trò.
Tín dụng thể hiện vai trò tích cực của nó trong đời sống kinh tế – xã
hội. Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Trước hết, tín dụng góp phần thúc đẩy việc tập trung và tích tụ vốn. Hai là,
tín dụng góp phần điều phối lại vốn trong phạm vi xã hội. Ba là, giải quyết
mâu thuẫn giữa việc tự do di chuyển vốn giữa các ngành với việc vốn sản
xuất gắn chặt với hình thái tự nhiên đã định sẵn cho nó và giữa quy mô đầu
tư với tính giới hạn của vốn cá nhân.
5 . Các loại tín dụng.
5.1 .Tín dụng nặng lãi.
Tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng tiêu dùng mà lãi suất rất cao, có

- Thứ ba là hạn chế về phương thức hoạt động : chiều vận động của
thương phiếu do chiều vận động của giá trị sử dụng của hàng hoá quyết định
vì vậy nó ấp ủ mầm mống khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa do tạo ra cầu
giả tạo (do người tiêu dùng có xu hướng mua nhiều hơn để tích luỹ).
- Thứ tư là nó loại bỏ khả năng kiểm soát : qua tín dụng thương mại
người ta có thể rửa tiền.
5.3 . Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa một bên là các ngân
hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế. Đây là hình thức hiện
đại và có nhiều ưu điểm như về đối tượng cho vay, phạm vi cho vay, khả
năng cho vay lớn do đó nó có vai trò hết sức quan trọng.

9
Giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt
chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Hoạt động tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở
cung cấp tín dụng ngân hàng, thể hiện ở việc cấp tín dụng ngân hàng trên cơ
sở thương phiếu của tín dụng thương mại. Ngược lại, hoạt động tín dụng
ngân hàng góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, tạo
điều kiện để tín dụng thương mại phát triển.
5.4 . Tín dụng Nhà nước.
Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng giữa Nhà nước với các thành
phần khác trong nền kinh tế hay giữa các Nhà nước với nhau.
Mục đích tín dụng Nhà nước là bù đắp thâm hụt ngân sách, phân phối
lại vốn, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực trọng điểm và các vùng
kinh tế còn yếu kém, đồng thời là công cụ tài chính để Nhà nước điều tiết vĩ
mô, mở rộng kinh tế đối ngoại.
5.5 .Tín dụng thuê mua.
Là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh
doanh hàng hoá dưới hình thức cho thuê tài sản cố định như máy móc, thiết
bị, văn phòng . . .

Các NHTM muốn hoạt động kinh doanh cần phải có một lượng vốn
nhất định. Trong khi vốn tự có của ngân hàng thì lại rất hạn chế, do đó các
ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ đó hình thành nguồn vốn và đồng
thời hình thành nghĩa vụ tài chính (Tài sản nợ).
Vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có thể được hình thành
từ các nguồn sau:
- Tiền gửi không kỳ hạn: loại này không phải trả lãi, nhưng khách hàng
có thể tiêu dùng bất kỳ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn,

11
và là đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng. Tuy vậy tính chất vận động
rất phức tạp, dễ rủi ro mất khả năng thanh toán.
- Tiền tiết kiệm: chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng tính chất vận động ổn định
- Đi vay: các ngân hàng có thể vay lẫn nhau hoặc vay của ngân hàng
Nhà nước (vay tái chiết khấu).
- Phát hành tín phiếu và kỳ phiếu.
- Vốn tự có: đây là lượng vốn thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Tài sản nợ khác (nguồn vốn khác): loại này lúc có lúc không, ngân
hàng này có ngân hàng khác có thể không có.
Bằng hoạt động huy động vốn, ngân hàng đã nắm trong tay phần lớn
của cải xã hội về mặt giá trị
b) Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Nghiệp vụ kho quỹ: đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng chi trả
thường xuyên cho khách hàng. Để đảm bảo chi trả cho khách hàng khi có
một luồng tiền rút ra ngân hàng phải thực hiện dự trữ bao gồm dự trữ bắt
buộc (gửi tại ngân hàng trung ương), và dự trữ vượt quá (tồn quỹ nghiệp vụ
ngân hàng).
- Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động cơ bản và chủ yếu của bất kỳ NHTM
nào. Đại bộ phận số tiền đi vay hay huy động được là để cho vay nền kinh
tế. Khoản mục này có tích luỹ kém nhất, độ rủi ro vỡ nợ cao, do đó ngân

tập trung, điều hoà lượng cung - cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động của
tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ
các người tiết kiệm sang những nhà đầu tư, phục vụ cho phát triển kinh tế xã
hội.
Hoạt động tín dụng giúp tận dụng những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
đưa vào sản xuất kinh doanh do đó nó góp phần thúc đẩy quá trình chu
chuyển tiền tệ, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn là công cụ chhủ yếu để tài trợ, đầu tư
cho các ngành, các lĩnh vực then chốt, các vùng kinh tế kém phát triển.
Đồng thời nó tạo lượng tiền cung ứng, phát triển kinh tế đối ngoại, góp phần
bình ổn giá cả và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.

13
2.2.2 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động của NHTM.
Đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Vì thế cần phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đa
dạng hoá hoạt động cho vay, đầu tư, đa dạng hoá khách hàng và thời hạn vay
để ngân hàng có thể đứng vững trong cơ chế thị trường.
3 . Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín
dụng của NHTM.
3.1 . Hiệu quả hoạt động tín dụng.
Theo các nhà Ngân hàng thì hoạt động tín dụng được coi là có hiệu
quả khi đảm bảo ba yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi nợ đúng hạn
và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng
khi tiến hành cho vay thì khoản vay đó phải mang lại thu nhập cho ngân
hàng, bảo đảm trang trải được chi phí trả lãi huy động hoặc đi vay, chi phí
ngân hàng và rủi ro, cùng với khả năng trả nợ của khách hàng và sự cân
xứng từ phía nguồn. Hiệu quả hoạt động tín dụng được đánh giá thông qua:
- Quy mô tín dụng :

đầu vào cộng với một tỷ lệ nhất định đủ để trang trải chi phí hoạt động và
đảm bảo cho ngân hàng có lãi. NHTM huy động vốn tự nhiều nguồn khác
nhau, mỗi nguồn đều có mức lãi suất nhất định.
c) Ảnh hưởng của yếu tố rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là hiện tượng bên vay vốn không trả
được nợ khi đến hạn. Có rất nhiều nguyên nhân khiến khách hàng không trả
được nợ:
- Nguyên nhân khách quan: do thiên tai, do biến động của thị trường,
do sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá. . . Rủi ro thiên tai là rủi ro bất khả kháng
đối với người vay, làm người vay thiệt hại nặng không trả được nợ. Rủi ro
do biến động của thị trường, biến động lãi suất hay tỷ giá là do biến động
tình hình kinh tế, chính trị do thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước dẫn
đến những biến động gây bất lợi cho khách hàng.
- Nguyên nhân chủ quan: là những nguyên nhân từ phía ngân hàng hay
do khách hàng gây ra. Do việc sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng,
ngoài ra còn do sự quản lý yếu kém đối với vốn vay quản lý kinh doanh kém
cũng là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán, không thực
hiện được nghĩa vụ trả nợ. Về phía ngân hàng, do việc thẩm định dự án

15
không chính xác, không phát hiện ra sai lầm của khách hàng trong việc tìm
hiểu thị trường để tư vấn cho khách hàng, hoặc do cán bộ tín dụng cố tình
hay thiếu kinh nghiệm nên khó tránh khỏi rủi ro khi cho vay.
Nói chung, rủi ro là điều mà bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể gặp
phải, nhưng nếu hiểu rõ nguyên nhân gây rủi ro thì ta có thể có biện pháp
hạn chế và tìm cách xử lý thích hợp.
d) Ảnh hưởng của các chính sách kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật. Ngoài luật doanh nghiệp, luật ngân hàng thì trong quá

loại như NHTM quốc doanh (NHNN & PTNT, NHĐT & PT, NHCT, …),
ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, một
số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.
Nước ta, do thị trường chứng khoán mới ra đời, phát triển chưa mạnh,
chưa phát huy hết hiệu quả nên hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn chủ
yếu, có vai trò tập trung, điều hòa vốn, đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho
các doanh nghiệp, cá nhân và cả Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, mặc
dù các NHTM đã gặt hái được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại
cần được nhanh chóng khắc phục.
II - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
Ở VIỆT NAM
1 . Thực trạng hoạt động tín dụng NHTM ở Việt Nam.
1.1 . Quy mô, cơ cấu huy động và cho vay.
 Về khả năng tạo lập vốn:
Ngay từ khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời các NHTM đã chú trọng việc
ổn định và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là mục tiêu chiến lược
của ngân hàng. Các NHTM một mặt có các giải pháp đa dạng hoá hình thức
huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, cạnh tranh; mặt khác áp

17
dụng chính sách bảo vệ khách hàng, dịch vụ trọn gói : nhận tiền gửi, cấp tín
dụng, mua bán ngoại tệ, thực hiện dịch vụ thanh toán… đồng thời nâng cao
chất lượng dịch vụ nhằm tạo ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả.
Nhìn chung, tổng nguồn vốn NHTM trong mấy năm qua tương đối ổn
định và có chiều hướng tăng, trong đó vốn của các NHTMQD chiếm phần
lớn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 20 – 30% năm và đến những năm gần đây
tốc độ này đã giảm do biến động chung của tình hình kinh tế khu vực và thế
giới.
 Về tình hình cho vay vốn:
Từ khi hình thành tới nay, các NHTM đã không ngừng tăng dư nợ cho

vực mới đó là cho vay tiền người đi xuất khẩu lao động.
Các NHTM đã cung cấp phần lớn vốn cho đầu tư phát triển các lĩnh
vực then chốt, đòi hỏi nhiều vốn theo kế hoạch của Nhà nước. Các NHTM
đã cho vay những khoản hợp vốn bằng ngoại tệ cho những dự án lớn: Nhà
nước khí điện đạm Cà Mau có tổng số vốn đầu tư trên 5700 tỷ VND, nhà
máy nhiệt điện Phú Mỹ. 6 NHTM đồng tài trợ 230 triệu USD cho dự án
phân đạm Phú Mỹ. 3 TCTD đồng tài trợ 30 triệu USD cho Petro Việt Nam
mua tàu chở dầu thô; 4 NHTMQD đồng tài trợ 95 triệu USD cho Dự án xi
măng sông Gianh; dự án mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ và đường ống dẫn khí
Nam Côn Sơn được tài trợ 50 triệu USD… và hàng loạt dự án lớn khác
thuộc lĩnh vực dầu khí, hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông, đóng
tàu… tổng cộng vốn tín dụng trị giá trên 1 tỷ USD.
 Về tốc độ cho vay vốn:
Trong mấy năm qua tốc độ cho vay của các NHTM còn thấp, chỉ chiếm
khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng (1997 là 73,15%; 1998 là 71,2%); lượng
vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng còn lớn, do vậy ngân hàng phải trả
một khoản chi phí lớn chi lãi huy động trong khi không thu được lợi nhuận.
Cho đến năm 1999 do tác động của giảm phát các ngân hàng đã hạ thấp lãi
suất huy động vốn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm khơi thông nguồn vốn
trong hệ thống NHTM, nhưng tốc độ cho vay tăng rất chậm.
Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999.
QuýI QuýII Quý III Quý IV
Huy động 9,3 19,3
Cho vay âm 6 8,5 10
(Nguồn : Chuyên san TBKT Việt Nam 98’ - 99’)
Như vậy, tốc độ cho vay tăng chậm trong khi lượng tiền gửi vào ngân
hàng vẫn tăng, mà chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên ngân hàng không thể
cho vay để giải toả vốn. Điều này là giảm thu nhập và gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


thách thức mới. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là mức dư nợ quá
hạn rất lớn. Chất lượng tín dụng của các khoản vay rất thấp, nhất là các
NHTM cổ phần đô thị, sau đó là các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ
phần nông thôn. Tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam được
công bố vào cuối năm 1998 là 13,6% tương ứng với khoảng 14.000 tỷ đồng

20
tăng gấp đôi so với tỷ lệ một năm trước đó và cuối năm 2000 con số này là
9,2%.
Nếu xét riêng từng loại ngân hàng thương mại năm 1998 ta thấy:
Các NHTM cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và nợ
khó đòi vào khoảng 10 % so với tổng dư n
ợ.
Các NHTM quốc doanh có mức dư nợ quá hạn chiếmkhoảng 11% và
nợ khó đòi khoảng 8% so với tổng dư nợ.
Các NHTM cổ phần nông thôn mức dư nợ quá hạn chiếm khoảng 5,6%
và nợ khó đòi là 0,7% so với tổng dư nợ.
Với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có
các tỷ lệ rất thấp, nợ quá hạn chiếm khoảng 2,3%, còn nợ khó đòi chỉ
khoảng 1,2% so với tổng dư nợ. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân
hàng trong nước là trên 15%, gấp 3 lần mức được coi là nguy hiểm.
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Tổng NQH/VTC 88,1 95,5 85 61,9 75,7 62,3 46
Tổng NQH/Tổng dư nợ 13,7 11,1 6,0 7,8 9,3 9,5 10
Tổng NQH/ Tổng TS

6,0 6,6 5,5 4,4 5,5 5,4 5,5
Vốn tự có/ Tổng TS 6,8 6,9 6,9 7,1 7,2 7,9 11,8
(Nguồn : Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề 12 - 1998).
Một câu hỏi được đặt ra là trong những năm gần đây, ngành ngân hàng

nhiều năm qua đã có nhiều chính sách, giải pháp linh hoạt nhằm thu hút
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế. Nhưng tỷ trọng
nguồn vốn có kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động còn thấp (khoảng 30 -
40%). Đây là một khó khăn của các ngân hàng khi muốn mở rộng quy mô
cho vay dài hạn. Mặt khác, các ngân hàng vẫn chưa sử dụng hết lượng vốn
đã huy động được, hệ số sử dụng vốn còn thấp. Trong mấy năm gần đây,
lượng vốn được sử dụng cho vay, đầu tư chỉ chiếm khoảng 40 - 50%. Đó là
biểu hiện không tốt đối vớiht NHTM bởi lẽ khi ngân hàng không cho vay
vốn huy động thì vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền và lãi tiền vay, trong khi
không thu được lãi cho vay nên khó có thể bù đắp nổi chi phí gây ra tình
trạng thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản ngân hàng.
Hai là, vấn đề nợ quá hạn và tài sản xiết nợ. Hiện tại hệ thống NHTM
ở Việt Nam có mức dư nợ quá hạn quá lớn. Chất lượng các khoản vay của
các NHTM thấp đặc biệt là các NHTM cổ phần. Dư nợ quá hạn khoảng 10%
(1998), thêm vào đó việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của ngân

22
hàng gặp nhiều khó khăn. Thời gian qua, việc xử lý tài sản thu hồi vốn được
thực hiện rất chậm, kết quả không cao do nhiều vướng mắc về thủ tục kê
biên phát mại, đánh giá giá trị tài sản. Đồng thời, các tài sản thế chấp lại khó
chuyển nhượng, thanh lý vì thị trường bất động sản chưa phát triển. Do vậy,
lượng vốn đọng trong các tài sản này khó có thể thu hồi ngay, làm cho các
khoản nợ khó đòi không thể xử lý được.
Ba là, về đối tượng cho vay: Những năm qua khách hàng của các
NHTM chủ yếu là các DNNN. Do có quyền được cấp tín dụng nên mặc dù
làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nhưng ngân hàng vẫn phải cho vay. Trong khi
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm nhiều, vốn cho vay
cá thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tới
50% dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng.
Bốn là, về công tác thẩm định đánh giá: để có thể bảo toàn vốn vay

kiện cho vay vốn.
Hơn nữa, các quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp chưa khoa
học, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế và cho ngân hàng. Nhiều doanh
nghiệp được đầu tư sản xuất kinh doanh chủ yếu từ vốn vay của ngân hàng
nhưng khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ thể đầu tiên được thanh toán nợ
từ nguồn thanh lý tài sản của doanh nghiệp không phải là ngân hàng cho vay
dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các pháp lệnh về kế toán, thống kê chưa đủ, chưa hiệu
lực để bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán chính xác, kịp
thời. Các số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp không phản ánh đúng
thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính thực tế của đơn vị.
 Nguyên nhân từ bản thân các doanh nghiệp vay vốn:
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, kể cả các
doanh nghiệp quốc doanh lẫn doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn tự có ít
ỏi. Để hoạt động được các nhà kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay của
ngân hàng, vì vậy một biến động nhỏ của thị trường, của lãi suất cũng đẩy
doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Vốn đã ít ỏi lại thêm tình
trạng lạc hậu của máy móc, thiết bị khiến cho năng suất lao động thấp, chất
lượng sản phẩm kém, giá thành cao, cạnh tranh diễn ra gay gắt. Vì vậy sản
phẩm sản xuất ra không liên tục được, thua lỗ trở thành hiện tượng phổ biến
của các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Mặt khác, trình độ và năng lực điều hành, kinh nghiệm quản lý của
một số doanh nghiệp còn hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao;
một số doanh nghiệp khi vay họ lập phương án kinh doanh rất hiệu quả,
chứng minh đầu vào, đầu ra rất khả thi nhưng do không tính toán hết những
biến động của thị trường nên bị thua lỗ. Trong những món vay trung và dài
hạn để nhập máy móc và thiết bị do không phát huy được tác dụng gây thiệt
hại lớn, không thể hoàn trả tiền vay cho ngân hàng. Hoặc một số trường hợp
nhà doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh nhưng
thiếu vốn hoạt động dẫn đến hiện tượng các doanh nghiệp cố tình chiếm

- Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng giữa NHNN và các
NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu, sự hợp tác trao đổi thông tin giữa các
NHTM còn hạn chế. Việc xét duyệt cho vay và quản lý vốn ở nhiều ngân
hàng thực hiện chưa tốt, thiếu các thông tin cần thiết trung thực về hiện trạng
dư nợ, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nên không tránh được rủi ro,
chưa có phòng chuyên trách thông tin về rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng

25
nên chưa tạo ra một công cụ tốt để ngăn ngừa rủi ro, tiêu cực trong hoạt
động của ngân hàng.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM.
I . GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG.
1.1 . Mở rộng nguồn vốn đầu tư.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã dần đi vào ổn định,
hoạt động tín dụng của các NHTM đã được cải thiện đáng kể và phù hợp với
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Song trên thực tế nguồn vốn huy
động và cho vay vẫn còn hạn chế nhất là vốn trung và dài hạn, điều này có
thể gây khó khăn cho các ngân hàng về khả năng thanh toán hay về lãi suất.
Vì thế, ngân hàng cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn, đa dạng các kỳ
hạn gửi tiền với nhiều mức lãi suất, hình thức trả lãi, thu hút vốn từ bên
ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm dài


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status