một số vấn đề về chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại việt nam hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng - Pdf 10

trờng đại học kinh tế quốc dân
Đề áN
lý thuyết tài chính tiền tệ
Đề tài:
một số vấn đề về chất lợng tín dụng ở ngân hàng thơng mại
Việt Nam hiện nay và giải pháp nâng cao chất lợng tín dụng
Giáo viên hớng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lớp :
Hà Nội - 2000
Đề cơng
Lời mở đầu
Phần I- những vấn đề cơ bản về hoạt động của
các ngân hàng thơng mại
I- Khái niệm, đặc trng, vai trò chức năng của các ngân
hàng thơng mại
1. Khái niệm.
2. Đặc trng của ngân hàng thơng mại Việt Nam theo Luật các
tổ chức tín dụng
3. Vai trò chức năng của ngân hàng thơng mại.
II- Hoạt động tín dụng
III- Thực trạng về hoạt động tín dụng của ngân hàng th-
ơng mại Việt Nam hiện nay.
1. Những vấn đề chung.
2.Thực trạng.
3. Những nguyên nhân dẫn đến chất lợng tín dụng giảm
4. Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro.
5. Những chỉ tiêu đánh giá chất lợng tín dụng
Phần II - Một số giải pháp nâng cao chất lợng tín dụng
ở các ngân hàng thơng mại Việt Nam hiện nay.
2

thành t bản tiền tệ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị tr-
ờng, trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động kinh tế tài chính
mới mà khả năng ngân hàng không thể biểu thị hết đợc mà hiện nay thuật
ngữ đang có xu hớng đợc sử dụng thay cho thuật ngữ ngân hàng ở phạm vi
rộng là "các định chế tài chính" và các tổ chức tài chính trung gian. Tổ
chức này thực hiện việc thu nhận toàn bộ các nguồn vốn trong toàn xã hội
mà nó huy động đợc để đầu t thông qua việc cấp tín, các chứng khoán hay
các hoạt động tài chính khác.
Nh vậy, với quan điểm ngân hàng là bao gồm các "định chế tài
chính", ngân hàng nớc ta đang là ngành quản lý và điều hành toàn bộ khối
lợng tiền trong lu thông, là kênh huy động, điều phối chính để đảm bảo
nhiệm vụ đầu t cho quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hoá. Đặc biệt
trong điều kiện hiện nay ở nớc ta, thị trờng vốn còn sơ khai, thị trờng
chứng khoán cha hoạt động có hiệu quả, các doanh nghiệp hoạt động chủ
yếu bằng vốn vay thì hoạt động của ngân hàng đang hàng ngày, hàng giờ
tác động đến đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội của nớc ta. Có thể nói: hoạt
động ngân hàng nói chung, và ở nớc ta nói riêng, phản ánh một cách tập
trung và chính xác, nhanh nhạy nhất toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nền kinh tế xã hội của nớc ta hay nói cách khác đó là "biểu kế"
của nền kinh tế quốc dân.
4
Năm 1991, thực hiện pháp lệnh về ngân hàng, ngân hàng Việt Nam
tách ra thành hai hệ thống: ngân hàng Nhà nớc và ngân hàng thơng mại.
Mỗi hệ thống thực hiện những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nhng
đồng thời phụ thuộc lẫn nhau đóng góp tích cực hơn vào quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Ngân hàng Nhà nớc đóng vai
trò định hớng và hoạt động quản lý tiền tệ. Ngân hàng thơng mại thực hiện
chức năng kinh doanh: đợc coi nh một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt,
kinh doanh tiền tệ. NHTM hoạt động ngày càng đa dạng và có hiệu quả đáp

- NHTM chịu sự quản lý Nhà nớc của NHNN về tổ chức và hoạt động
của ngân hàng.
3. Vai trò chức năng của ngân hàng thơng mại.
a. NHTM là những trung gian tài chính, là môi giới giữa ngời gửi tiền
và ngời vay vốn, giữa tiết kiệm và đầu t. Hay nói cách khác, nó thực hiện
chức năng kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng. Trên cơ sở huy động
các khoản tiền gửi, sau đó thực hiện cho vay với lãi suất cho vay lớn hơn lãi
suất huy động. Hoặc sử dụng và đầu t. Ngoài ra còn thực hiện cung cấp
các dịch vụ khác nh: thanh toán, chuyển tiền, bảo quản các chứng từ có giá,
kinh doanh vàng bạc, chứng từ uỷ thác
b. Bằng con đờng tăng trởng vốn, các NHTM góp phần thúc đẩy tăng
trởng kinh tế. Thông qua tập trung vốn, NHTM cho doanh nghiệp vay để có
vốn tăng qui mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị , áp
dụng tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy sản xuất phát triển.
c. Với t cách là một hệ thống, các NHTM tham gia quá trình "tạo tiền"
làm thu hẹp hay mở rộng hệ số của các phơng tiện thanh toán, tạo cân đối
hay làm mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, làm giảm nhẹ hay
gây áp lực với hàng hoá, giá cả
d. Đằng sau hoạt động NHTM diễn ra quá trình tích tụ và tập trung
vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
II- Hoạt động tín dụng.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tín dụng. Nhng tóm
lại, dù có nhiều định nghĩa khác nhau thì bản chất của nó là quan hệ vay m-
ợn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lại nhau.
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và những căn cứ khác nhau mà
phân loại tín dụng thành: tín dụng thơng mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
tiêu dùng, tín dụng cho thuê tài sản Trong bài này chúng đề cập đến tín
dụng ngân hàng.
Chức năng của tín dụng là:
6

Ngoài ra còn một hệ thống tiết kiệm bu điện mới thành lập và gần 60
văn phòng đại diện của ngân hàng nớc ngoài hoạt động. Tổng số ngời làm
việc trong lĩnh vực ngân hàng khoảng 60.000 ngời (trong tổ chức tín dụng
51.000 ngời).
Các tổ chức tín dụng phát triển nhanh nhất vào khoảng các năm 1992-
1995 thời kỳ thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, tổ chức lại hợp tác xã tín
dụng và mở cửa quan hệ quốc tế. Đây vừa là u thế để thúc đẩy cạnh tranh
của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng với nhau, giúp không ngừng
nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lợng của các hoạt động tín dụng.
Nhng đồng thời cũng là một khó khăn trong việc hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Từ khi tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nớc
thực hiện chức năng quản lý và hệ thống ngân hàng thơng mại thực hiện
chức năng kinh doanh. Do có sự phân công và phối hợp giữa hai hệ thống
này, giúp cho vai trò của ngân hàng đợc thực hiện, đóng góp tích cực hiệu
quả vào phát triển kinh tế - xã hội của nớc ta nhất là giai đoạn đang quá độ
và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện
qua tốc độ tăng trởng nhanh (trung bình 8,2-8,5%/năm, tốc độ phát triển
của các ngành nghề, tạo công ăn việc làm, góp phần tích cực vào chính
sách xã hội nh xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vốn cho nông dân phát triển
kinh tế .Và một điều đáng nói nữa là: trong khi các nớc khác chịu ảnh hởng
nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thì nớc ta không những
chỉ có ảnh hởng chút ít,lại còn giữ vững đợc sự ổn định của tiền tệ, giữ
vững mức độ tăng trởng cao nhất Đông Nam á, và cao hơn nhiều nớc trên
thế giới. Nhng chúng ta không thể phủ nhận rằng hoạt động của ngân hàng
vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện, do vậy vẫn còn tồn tại một số vấn
đề mà cần có sự điều chỉnh và đổi mới để phát huy hơn nữa những kết quả
đã đạt đợc,nhất là trong lĩnh vực hoạt động tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng cũng là một hình thức kinh doanh nhng rất đặc
biệt, nó khác với ngành nghề kinh doanh khác. Nó hoạt động theo phơng

hiệu quả hoạt động của khu vực này không đủ bù đắp cho sự giảm nhanh
chóng lợi nhuận từ khu vực tín dụng. Tóm lại hiệu quả hoạt động chung của
hệ thống ngân hàng còn thấp.
Nâng cao chất lợng tín dụng và hiệu quả kinh doanh là vấn đề quan
tâm số một của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Sự suy giảm chất lợng tín
dụng ở phạm vi rộng lớn là mầm móng cho khủng hoảng kinh tế có thể
bùng nổ bất cứ lúc nào. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, cách đây hai năm,
NHNN đã yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng bằng
công văn 756/CV-NH3 và đến nay có thể nói toàn ngành ngân hàng có
những chuyển biến đáng kể. Các tổ chức tín dụng đã quan tâm đúng mức
đến việc áp dụng các biện pháp để xử lý nợ quá hạn. Tuy vậy, hiện nay theo
kết luận của Thống đốc NHNN tại hội nghị giám đốc NHNN tháng 7 năm
9
1998: "Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp tăng cờng thu hồi nợ quá hạn
và nâng cao chất lợng tín dụng, nhng tình hình nợ quá hạn vẫn cao, cha đợc
khắc phục và còn tiếp tục gia tăng".
Tín dụng với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Hiện tại mỗi NHTM quốc doanh đợc cấp 1.100 tỷ đồng vốn điều lệ
(70 triệu USD) và giới hạn an toàn nguồn vốn huy động khoảng 30.000 tỷ
đồng (2 tỷ USD). Nh vậy quy mô hoạt động của ngân hàng quá nhỏ để mở
rộng đầu t và hội nhập quốc tế. Với vai trò là trung gian tài chính cung cấp
nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt đợc những hiệu quả
đáng kể thì những tồn tại trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Có thể nói nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất, nếu không nhanh chóng
khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống
ngân hàng cũng nh tình hình kinh tế - xã hội. Qua số liệu thống kê, nhiều
doanh nghiệp Nhà nớc có trị giá taì sản còn lại chỉ bằng 61% nguyên giá
tài sản cố định, còn vốn lu động do Nhà nớc cấp cho các doanh nghiệp Nhà
nớc chỉ mới đạt khoảng 20% so với yêu cầu sản xuất kinh doanh nhng thực

tổ chức tín dụng là điều hiển nhiên. Hiện tợng khá phổ biến mà bất cứ ai có
một chút quan tâm đến hoạt động ngân hàng đều có thể nhận thấy rằng:
thời gian qua, có không ít DNNN làm ăn thua lỗ, phá sản đợc các cơ quan
chủ quản (Bộ, ngành, tỉnh) ra quyết định giải thể, sau thành lập đơn vị mới
(với bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị vừa giải thể)để "xù"
các khoản nợ của tổ chức tín dụng này và tiếp tục quan hệ với các tổ chức
tín dụng khác.
Không riêng gì DNNN mà ngay cả đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh cũng vậy. Trong thời gian qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đã đợc thành lập một cách ồ ạt, mở rộng với qui mô lớn song lại tách rời
với khả năng tài chính. Một thực trạng đáng lo ngại là ngoài sự yếu kém về
trình độ công nghệ, trình độ quản lý, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
hiện nay đang quá ít vốn và thực tế cho biết không ít trờng hợp doanh
nghiệp ngoaì quốc doanh hoàn toàn không có vốn để hoạt động kinh
doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời bằng" vốn ảo" vì vậy hoạt động sản xuất
của các DNNQD chủ yếu bằng vốn vay hoặc vốn chiếm dụng .
Thực trạng tài chính của các doanh nghiệp nh trên đã nảy sinh tình
trạng tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn
tự có. Mà hoạt động tín dụng bắt đầu từ sản xuất kinh doanh gắn bó với
việc chu chuyển đồng vốn và quá trình sản xuất, lu thông hàng hoá phục vụ
cho đời sống của nhân dân. Hay nói cách khác, hoạt động tín dụng bắt đầu
từ nội dung hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất lu thông. Có
"cầu" thì mới có "cung". Cầu đúng đắn, chính đáng thì cung mới bảo đảm
và phát huy tác dụng. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã làm cho rủi ro
11
trong tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Để nâng cao chất lợng tín
dụng thì việc chấn chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế. Hay cụ thể hơn là bắt đầu từ chấn chỉnh chế độ tài
chính của các doanh nghiệp, cho dù ngân hàng có đề ra kiểm soát trớc,
trong và sau khi cho vay nhng thực tế ngân hàng làm sao kiểm soát nổi?

12
nguy khẩn cấp. Vì vậy họ dùng mọi thủ đoạn từ việc năn nỉ đến quà cáp,
biếu xén, hối lộ cán bộ tín dụng, những việc mà khách hàng có lòng tự
trọng không bao giờ làm, miễn sao vay đợc nhiều vốn càng tốt". Đây là một
rủi ro đạo đức do khách hàng gây nên. Chúng ta không nên coi trọng quá
vấn đề tín chấp hay tài sản thế chấp. ở Việt Nam đã thiên vị, coi trọng vấn
đề thế chấp hơn là tín chấp. Trong luật cầm cố, ngời đi vay phải chuyển tài
sản cho ngân hàng, điều này cha triệt để vì trong lĩnh vực thơng mại không
thích hợp. Ví dụ: Trong thế chấp kho ngân hàng không thể quản lý đợc.
Bản chất của sự cầm cố là ngời vay tín dụng phải đa tài sản của mình cho
ngân hàng cầm cố trong khi về mặt pháp lý họ vẫn là chủ sở hữu của tài sản
đó (ở đây có sự khác biệt giữa sở hữu về mặt pháp lý và sở hữu thực tế
quyền sử dụng).
Trong trờng hợp thế chấp kho hàng, ngân hàng không thể thể lấy hàng
hoá trong kho đa về ngân hàng đợc. Trờng hợp này cần uỷ thác cho ngời
thứ ba trông coi kho và quản lý tài sản đó. Đây là một khâu sơ hở dẫn đến
rủi ro cho ngân hàng do khách hàng và cán bọ tín dụng ngân hàng gây nên.
Điển hình là vụ án gần đây nhất: Epco - Minh Phụng.
Đây là vụ án lớn nhất từ trớc đến nay bao gồm 77 bị cáo trong đó
còn 18 cán bộ ngân hàng, gây tổng thiệt hại hơn 4.300 tỷ đồng. ở đây
chúng đã sử dụng thủ đoạn. Cách luật để vay vốn ngân hàng. Ngoài việc
thành lập nhiều Công ty "ma" nhỏ để vay vốn ngân hàng cho chúng sử
dụng thì chúng còn sử dụng thủ đoạn nhập khẩu hàng hoá thông qua pháp
nhân của cá DNNN có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá
nh: Ngũ cốc, Công ty xuất nhập khẩu Đất Việt các DNNN nhập khẩu
hàng hoá ở nớc ngoài về đều có bảo lãnh của ngân hàng. Song các doanh
nghiệp lại đem lô hàng đó thế chấp cho ngân hàng bảo lãnh (ngân hàng
nhận thế chấp tài sản của mình). Khi hàng đợc nhập về Việt Nam, các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Nhà nớc đem bán trên thị trờng hoặc
phân phối các đại lý ở phía Nam. Theo qui định của Chính phủ và Bộ thơng

quốc doanh, nông dân nghèo, sinh viên vấn đề làm cho NHTM coi tài
sản thế chấp là nguồn thu nợ thứ hai và là nguồn thu nợ duy nhất nên đã
không quan tâm đến xem xét thẩm định thu từ doanh thu, lợi nhuận hoặc
thu nhập của khách hàng. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp nhất là doanh
nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả. Phơng án vay vốn có tính khả thi rõ
ràng cũng bị từ chối cho vay thì không có tài sản thế chấp. Nhng vay tín
chấp thì sao. Có lẽ hiệu ứng "Fameco" làm cho các ngân hàng thơng mại
cảnh giác quá mức cần thiết khi không cần. Trong kinh tế thị trờng vì bao
nhiêu bất ngờ rủi ro chờ đợi các doanh nghiệp, có thể xảy ra bất cứ lúc nào,
gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thế nhng chỉ dựa vào tài sản thế
chấp không phải là giải pháp hữu hiệu. Thực trạng các NHTM có hàng
trăm ngôi nhà thế chấp không bán đợc để thu nợ, gây tổn thất cho ngân
hàng.
14
Bài học rút ra từ vụ án Epco - Minh Phụng vẫn còn. Đợc sự giúp đỡ,
bảo lãnh của Huỳnh Văn Thành -Nguyên chủ tịch và ông Phạm Tấn Khoa-
nguyên phó chủ tịch UBND quận 3 TP. Hồ Chí Minh đã che dấu hoạt động
kinh doanh thua lỗ của Công ty Epco- Minh Phụng, nâng vốn và hạch toán
lãi tạo điều kiện cho bọn chúng tiếp tục vay vốn ngân hàng hoạt động và
lấy vốn vay chia lãi. Hay đợc sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã cố
ý nâng giá tài sản thế chấp hoặc đem thế chấp cho nhiều ngân hàng khác
nhau. Đây là bài học cho cán bộ ngân hàng về sự lơ là trách nhiệm, làm
việc trên giấy tờ, văn bản đề nghị của khách hàng để định món vay.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng là các tài sản nợ, có tính thanh
khoản cao và chủ yếu phải chi trả, phải thanh toán ngay khi có yêu cầu của
chủ tài khoản, trong khi đó ngân hàng lại sử dụng nguồn vốn để đầu t và
cho vay, dới dạng tài sản có tính thanh khoản thấp, khó định giá và thờng
có thời gian trung bình dài hơn so với thời gian huy động vốn. Dới góc độ
chế độ kế toán nhìn từ bản cân đối tài sản của một ngân hàng ta thấy: bên
nguồn vốn thì phần lớn là huy động từ nguồn ngắn hạn (dới một năm) nhng

335 vụ lừa đào có 254 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 460 t nhân, 10
DNNN. Phòng cảnh sát kinh tế công an tỉnh Nam Định phát hiện Dơng
Thuý Hiền Giám đốc Công ty TNHH Tuyết Thu đã sử dụng tới 66 bộ hồ sơ
nhà đất giả, có công chứng giả để thế chấp 3 ngân hàng vay trên 13 tỷ đồng
sau đó bỏ trốn. Tham gia vào vụ lừa đảo này có 3 giám đốc Công ty TNHH
và 3 t thơng. Đáng lu ý, số cán bộ tín dụng ngân hàng của 3 ngân hàng đã
không làm đúng chức năng nhiệm vụ đợc giao nh kiểm tra hồ sơ vay, thẩm
định tài sản thế chấp, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay để khi
đối tợng vay bỏ trốn vẫn không biết- hoặc Vũ Văm Nam, giám đốc Công ty
TNHH Thiên Thanh Hà Nội cùng vợ Trần Bích Thuỷ trong 3 năm (từ 1994-
1996) bằng một thủ đoạn dùng một tài sản thế chấp vay vốn nhiều ngân
hàng và các doanh nghiệp 23 tỷ đồng sau đó bỏ trốn.
Một dạng khác là sử dụng giấy tờ nhà thuê của Nhà nớc đem thế chấp
vay vốn ngân hàng sau đó thực hiện hành vi lừa đảo, hoặc trớc khi bán
nhà, đem bộ hồ sơ nhà đất làm công chứng, sau đó bán nhà bằng hồ sơ gốc
rồi đa hồ sơ công chứng để vay thế chấp để thực hiện hành vi lừa đảo.
Cuối năm 1996, lực lợng cảnh sát kinh tế phát hiện một thủ đoạn khá
tinh vi của 3 sinh viên trờng Cao đẳng ngân hàng và cán bộ kho bạc Hà Nội
đã dùng hoá chất tẩy các chữ viết trong tờ trái phiếu kho bạc mệnh giá 200
nghìn và 300 nghìn, sau đó nghi mệnh giá mới từ 100 triệu đồng đến 680
triệu đồng, dùng con dấu giả và chữ ký giả của ban lãnh đạo kho bạc Hà
Nội để làm giấy xác nhận cho các tờ trái phiếu, lừa một ngân hàng Hà Nội
lấy trên 2 tỷ đồng chia nhau sử dụng cá nhân. Hoặc vụ lừa đảo của Đặng
Thị Hồng thủ quĩ ngoại tệ ngân hàng công thơng Hải Dơng chiếm đoạt 100
nghìn USD trên đờng vận chuyển nộp quĩ ngân hàng công thơng Việt Nam
16
ngày 04/02/1997. Bằng thủ đoạn nh vậy Nguyễn Thị Thời đã rút của kho
bạc Thái Nguyên gần 5 tỷ đồng suốt từ năm 1993-1997.
Tình trạng cán bộ nhân viên ngành ngân hàng lợi dụng chức vụ quyền
hạn đợc giao để tham ô tiền bạc của ngân hàng cũng xẩy ra khá phức tạp

thân ở Việt Nam đã dùng thẻ thanh toán tín dụng quốc tế (Master card) đợc
làm giả ở nớc ngoài để rút tiền ở các ngân hàng nh vụ Lê Công Đảng, Phan
17
Đình Chơng và Trần Toàn Việt là Việt Kiều Mỹ đã dùng thẻ tín dụng giả
lừa trung tâm Kiều Hối 68 Lê Lợi quận 1 TP. Hồ Chí Minh lấy số tiền 40
nghìn USD. Hoặc vụ Ramran Takis Siddiam và Adnan Takis Sidqui (đều
mang quốc tịch Pakistan) dùng hộ chiếu giả để lừa đổi sec du lịch cửa hàng
vàng bạc thuộc Công ty kinh doanh vàng bạc Hà Nội, bị công an Hà Nội
bắt giữ. Chúng đã lừa nhiều chi nhánh ngân hàng đợc 25 nghìn USD. Trong
năm 1997, 3 chi nhánh ngân hàng Hải Phòng đã bị một số đối tợng ngời n-
ớc ngoài lừa đổi séc du lịch giả với số tiền là 31 nghìn USD.
Đứng thứ hai trong nhóm các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân
hàng là tội cố ý làm trái các qui định của Nhà nớc về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng nhiều vụ án lớn trong thời gian qua đợc phát hiện nh
vụ lừa đảo của Lý Hóc Hỷ, giám đốc Công ty TNHH đầu t và phát triển
kinh tế Sóc Trăng, vụ Tamexco, vụ Công ty dệt Nam Định, Epco Minh
Phụng, vụ VPBank, vụ Công ty TNHH Tân Hoàn Mỹ TP. Hồ Chí Minh
cho thấy tình trạng cố ý làm trái, nhận hối lộ của nhiều cán bộ, nhânviên
ngành ngân hàng trong quá trình xét duyệt hồ sơ cho vay, thẩm định tài sản
thế chấp, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay, thậm chí tái bảo lãnh
sai nguyên tắc, khi đối tợng vay không trả đợc nợ thì lại áp dụng thủ tục
đảo nợ nhằm làm "trong sạch" sổ sách để trốn tránh sự phát hiện của các
đoàn kiểm tra, thanh tra của ngân hàng và các cơ quan chức năng.
Việc bảo lãnh của các ngân hàng cho các doanh nghiệp mở L/C mua
hàng trả chậm cũng nảy sinh nhiều tiêu cực. Chủ yếu là do thiếu tinh thần
trách nhiệm hoặc cố ý làm trái của một số cán bộ, nhân viên ngành ngân
hàng do không quản lý theo dõi đợc thời gian, địa điểm, hàng hoá nhập về,
quá trình bán hàng và thanh toán trả nợ ngân hàng để các đối tợng vay bán
hết hàng, đem vốn sử dụng vào các mục đích khác nhau, hoặc sử dụng vốn
vay sai mục đích để các đổi tợng khác chiếm dụng vốn dẫn đến mất khả

soạn thảo. Kỷ thuật cấp tín dụng vừa mang tính duy ý chí chủ quan của bên
cấp tín dụng, vừa thiếu cơ sở khách quan của nền kinh tế. Thông thờng một
đơn xin vay đều có ghi rõ mục đích sử dụng tiền vay, số tiền xin vay và thời
hạn trả nợ. Song điều đó hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của ngời
xin vay và khó có thể biết chắc rằng rằng, việc sử dụng tiền vay nh vậy
không đạt đợc mục tiêu đề ra trong phơng án kinh doanh hay không. Vì
vậy kèm theo đơn xin vay thì có phơng án sản xuất kinh doanh nh là một
cơ sở để chứng minh cho ý đồ của ngời vay. Vấn đề đặt ra là độ tin cậy của
phơng án kinh doanh đó đạt đến mức độ nào, thì khó có tiêu chuẩn nào
đánh giá và dự đoán đợc. Và khi có sự dự đoán không chính xác, nghiễm
nhiên ngân hàng phải chịu rủi ra. Đấy là cha nói đến tình trạng là: về
nguyên tắc các phơng án sản xuất kinh doanh phải do ngời đi vay thành
lập hoặc có thể thuê ngời lập nhng không phải là cán bộ tín dụng, tuy nhiên
hiện nay hầu hết họ không có khả năng tự lập dự án và cũng cha có chuyên
19
trách hớng dẫn, do cán bộ tín dụng phải trực tiếp hớng dẫn cho ngời viết
đơn xin vay, sau đó chính mình lại thẩm định dự án. Do vậy việc thẩm định
dự án chỉ mang tính hình thức, thiếu khách quan vì cán bộ tín dụng "vừa đó
bóng, vừa thổi còi".
Các dự án vay vốn với số lợng khách hàng đa dạng, phong phú, với lại
thờng theo một mẫu chung, thờng là mẫu in sẵn, ngời vay chỉ ghi thêm số
liệu vào bảng tái khẳng định. Nhng nội dung quan trọng thể hiện tính khả
năng thực thi của dự án không đợc đề cập đến. Cán bộ tín dụng không có
số liệu về định mức kinh tế - kỹ thuật, thông tin giá cả nên không có cơ sở
khoa học để kiểm tra số liệu của dự án. Hơn nữa, một khi việc cấp tín dụng
chỉ đặt ra chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của bên cho vay quyết định, thì
vấn đề tiêu cực trong quan hệ tín dụng sẽ có điều kiện nảy nở. Đặt vấn đề
thẩm định và ngời quyết định cho vay phải chịu trách nhiệm vật chất nếu
rủi ro xảy ra thì chắc chắn tín dụng sẽ bị co cụm lại và vấn đề đảm bảo tín
dụng sẽ đợc đặt ra một cách khắc nghiệt. Và nh vậy, khối lợng tín dụng

quy trình tín dụng để tham ô tiền bạc của ngân hàng với nhiều thủ đoạn
tinh vi khác nhau nh: thu nợ không nộp quỹ, lấy tiền để chơi đánh bạc, mua
xổ số, cho vay lại với lãi suất cao, hay tiếp tay cho bọn lừa đảo chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa, vay ké Hoặc sửa chữa tài khoản để rút tiền sử dụng
mục đích cá nhân.
Trình độ năng lực quản lý điều hành của các cán bộ ngân hàng cha
đáp ứng đợc yêu cầu thực tế của thị trờng. Nhiều cán bộ đã gắn bó nhiều
năm với cơ chế bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trờng bị hững hụt về kiến
thức cả về kinh tế lẫn pháp luật, trình độ ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ
chuyên môn cha đáp ứng đợc. Điều này cũng thể hiện sự yếu kém trong
khâu quản lý của ban lãnh đạo. Hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát phát hiện những vi phạm vẫn còn chậm xử lý. Thiếu thận trọng
khi đặt quan hệ tín dụng với khách hàng, và khoảng cách giữa ngân hàng và
khách hàng còn khá xa. Sự phối hợp giữa ngân hàng với cơ quan t pháp vẫn
còn cha đồng bộ, chặt chẽ.
Bản thân ngân hàng cũng có nhiều chậm trễ trong việc tham mu, đề
xuất ban hành sửa đổi, bổ sung các chính sách có liên quan đến hoạt động
ngân hàng nh: bảo lãnh, thế chấp, cầm cố, phát mại tài sản thế chấp hoạt
động của các ngân hàng trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa
thừa, không ổn định, bên cạnh đó một số chủ trơng, chính sách ngành ngân
hàng lại luôn đợc thay đổi, thậm chí trong thời gian ngắn. Nhiều NHTM
cho rằng trong thời gian qua NHTM Việt Nam ban hành nhiều qui định tự
trói buộc các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Nhiều vấn đề
thực tế xảy ra nhng lại cha đợc quy định, bổ sung kịp thời, những qui định
của Nhà nớc, Chính phủ thì NHNN Việt Nam chậm hớng dẫn NHTM thực
hiện.
21
Những nguyên nhân khách quan cũng tác động không những đến hoạt
động tín dụng. Một trong những nguyên nhân sâu xa và là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân làm đất nớc ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều

Phân tích đợc nguyên nhân, thấy đợc rủi ro tín dụng là do đâu để từ đó
có đánh giá mức độ và khắc phục. Phân tích rủi ro tín dụng là hoạt động
22
bắt buộc trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng. Chất lợng của
công tác phân tích rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào trình độ của cán bộ
tín dụng, không có một chuẩn mực chi tiết mang tính cố định cho hoạt
động này. Phân tích rủi ro tín dụng là nhân tố quyết định sự thành bại của
mỗi khoản cho vay tín dụng.
Trớc khi ngân hàng có một quyết định đầu t vào một dự án hay một tài
sản thế chấp nào đó, bản thân mỗi NHTM với công việc đầu tiên đều phải
đánh giá hiệu quả và rủi ro của việc đầu t đó, phải xác minh cân đối giữa
khả năng, giữa lợi nhuận thu đợc và mức độ rủi ro liên quan có thể chấp
nhận đợc hay không (mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận). Khi cho vay
đầu t đối với cá nhân và tổ chức, về nguyên tắc đánh giá không có gì khác
nhau, mà chỉ khác ít nhiều về nội dung đánh giá.
Có nhiều phơng pháp đánh giá rủi ro tín dụng khác nhau, tuy nhiên
hiện nay phơng pháp thông thờng đang đợc nhiều định chế tài chính áp
dụng trên thế giới là phơng pháp "5c" để phân tích tín dụng. Phơng pháp
này, khi phân tích tín dụng thông qua 5 chỉ tiêu khác nhau.
a. Vốn: thông qua mức vốn để đánh giá thực trạng và tình hình hoạt
động của đối tác vay vốn. Vốn là yếu tố quan trọng thể hiện tiềm lực tài
chính của khách hàng. Mặc dù sức mạnh tài chính chỉ là một tỷ số các yếu
tố liên quan đến việc đánh giá rủi ro, những thông tin có đợc để đánh giá
vốn nói chung sẽ hình thành cơ sở để đánh giá các yếu tố khác nh khả năng
năng lực tài chính. Do vậy, để đánh giá rủi ro tín dụng luôn luôn bắt đầu từ
việc đánh giá sức mạnh tài chính của ngời vay, cần đánh giá về thực trạng
tài chính của ngời vay và thu nhập dự kiến trong tơng lai của ngời vay.
b. Khả năng trả nợ : Phân tích khả năng hoàn nợ của đánh giá vay
vốn. Việc đánh giá khả năng hoàn nợ của khách hàng là cực kỳ quan trọng,
nó quyết định chất lợng tín dụng. Khi đánh giá khả năng hoàn trả, điều

còn xây dựng tính điểm cụ thể cho mỗi chỉ tiêu và căn cứ vào những điểm
số này, ngân hàng đa ra quyết định cho vay hoặc đầu t hay không. Điểm
trong phân tích đợc hiểu nh một hình thức đo lờng đợc tính theo phơng
pháp xác suất thống kê. Dựa vào khả năng hoàn trả của khách hàng. Điểm
này sẽ đợc chấm với từng chỉ tiêu, tuy nhiên đối với từng khách hàng là cá
nhân và doanh nghiệp đều có những tiêu thức khác nhau để xác định. Với
từng vấn đề, số điểm tối đa, tối thiểu nhác nhau dựa theo từng cách sử dụng
của ngời đánh giá.
5. Những chỉ tiêu đánh giá chất lợng tín dụng.
Để đánh giá đợc chất lợng hoạt động tín dụng có những chi tiêu trực
tiếp nh dựa trên tổng d nợ cho vay hay mức nợ khó đòi trong khả năng có
thể chấp nhận đợc ở Việt Nam hiện nay là 5% tổng d nợ cho vay, thấp hơn
so với thế giới là 8% tổng d nợ cho vay. Nhng chỉ tiêu này cũng cha xác
24
định đợc rõ ràng vì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nớc ngoài ra ta
có thể đánh giá một cách gián tiếp thông qua xác định hiệu quả kinh tế của
đầu t tín dụng, nhất là đối với đầu t tín dụng theo dự án. Đó là đầu t trung -
dài hạn.
a. Nguyên tắc xác định hiệu quả kinh tế của đầu t tín dụng.
Bất cứ một hoạt động nào cũng đòi hỏi chi phí và thờng đạt một số kết
quả nhất định. Mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt đợc gọi là hiệu
quả.
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả xem xét trên khía cạnh kinh tế của vấn
đề. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế đạt đợc và chi phí phụ
thuộc vào chủ đề và mục tiêu mà chủ thể đặt ra.
Hoạt động đầu t tín dụng theo dự án là một quá trình xem xét cấp vốn
tín dụng trên cơ sở những dự án có tính khả thi. Đây là hoạt động đầu t
phát triển, là hoạt động tín dụng - trung - dài hạn của các NHTM. Tham gia
hoạt động này vì các chủ thể: ngân hàng, khách hàng và Nhà nớc. Vì vậy
hoạt động đầu t tín dụng theo dự án có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status