Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới - Pdf 10

lời nói đầu
Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới
của thế kỷ 21, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà
không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không ngoại
trừ đối với Việt Nam, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền kinh tế,
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định đường lối đổi
mới và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH-HĐH hướng mạnh vào
xuất khẩu.
Để tăng xuất khẩu trong thời gian tới, Việt nam chủ trương kết hợp xuất
khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất
khẩu truyền thống: hàng nông lâm thủy sản, khoáng sản, hàng giầy dép và dệt
may) và một số mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm: ôtô, xe
máy, hàng điện tử và dịch vụ phần mềm ...
Hàng thủy sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam trong
thời gian qua đã gặt hái được sự thành công rực rỡ. Từ mức kim ngạch xuất khẩu
là 550,6 triệu USD vào năm 1995, đã tăng lên mức 971,12 USD vào năm 1999,
trung bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong nhiều năm vừa qua. Thị trường
xuất khẩu thủy sản đã và đang được mở rộng đáng kể, thủy sản của Việt Nam đã
chiếm được vị trí quan trọng trong thị trường nhập khẩu thuỷ sản của thế giới.
Liên minh Châu Âu (EU), một thị trường nhập khẩu thủy sản đầy tiềm
năng trong thời gian qua đã có những tác động rất tích cực đến việc xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu to lớn của xuất khẩu thủy sản
sang EU, vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực, cố gắng
trong thời gian tới để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, nhằm tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước.
Xuất phát từ nhận thức trên đây, cũng như vai trò to lớn của xuất khẩu
thủy sản trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta, tôi đã chọn đề tài “ Những giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường
EU trong những năm tới “ để viết đề án môn học. Việc nghiên cứu đề tài này có

nhằm mục đích lợi nhuận.
Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế thể hiện ở những điểm sau:
-Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại .
-Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống dân cư.
-Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều
nghiệp vụ, nhiều khâu, nhưng quy tụ lại hoạt động này gồm các bước sau.
1. Hoạt động Marketing
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là: điều tra xem nên buôn bán gì,
bằng phương pháp nào, quyết định phương châm buôn bán (điều tra thị trường,
chọn bạn hàng).
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với
bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu hàng hóa. Nghiên
cứu thị trường đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, phải trả lời được các
câu hỏi quan trọng sau đây:
-Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm xuất khẩu
của doanh nghiệp?
-Khả năng số lượng xuất khẩu được bao nhiêu?
-Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước đòi hỏi của thị trường đó?
-Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? Thương nhân trong giao
dịch là ai? Phương thức giao dịch xuất khẩu?
Nội dung của nghiên cứu thị trường xuất khẩu bao gồm các vấn đề sau:
hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như
thế nào; nó diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ
mới.
1.1.3 Phân tích các điều kiện của thị trường xuất khẩu

+Những cách sử dụng và thói quen tiêu dùng;
+Những điều cấm kỵ về xã hội và văn hóa;
+Vấn đề an ninh;
+Liên kết không tốt giữa các bộ phận trong nội bộ.
1.2 Nghiên cứu về giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới
Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh quan hệ cung- cầu hàng hóa trên
thị trường thế giới. Và nó có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
của doanh nghiệp.
1.2.1 Giá quốc tế
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hóa nhất định trên
thị trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường,
không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi.
Trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, có thể coi những giá sau đây là giá
quốc tế.
-Đối với những hàng hóa không có trung tâm giao dịch truyền thống trên
thế giới, thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc những nước nhập
khẩu chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được.
-Đối với những hàng hóa thuộc đối tượng buôn bán ở các sở giao dịch
(cao su thiên nhiên, kim loại màu) hoặc ở các trung tâm bán đấu giá (chè, thuốc
lá...), thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó.
-Đối với máy móc thiết bị rất đa dạng, việc xác định giá cả quốc tế tương
đối khó. Vì vậy, trong thực tế chủ yếu căn cứ vào giá cả các hãng sản xuất và
mức cung trên thị trường.
1.2.2. Dự đoán xu hướng biến động giá cả
Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả của loại hàng hóa
mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường thế giới, phải dựa vào kết
quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường hàng hóa đó, đồng thời đánh giá
chính xác các nhân tố tác động tới xu hướng biến đổi giá cả.
Có nhiều nhân tố tác động đến giá cả hàng hóa trên thế giới và có thể

hàng trong kinh doanh xuất khẩu có thể được chia làm ba loại:
-Các hãng hay công ty.
-Các tập đoàn kinh doanh.
-Các cơ quan nhà nước.
Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu
các vấn đề sau:
-Tình hình kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả
năng mua hàng thường xuyên của hãng.
-Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
-Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng
giành lấy độc quyền về hàng hóa.
-Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất là nên lựa chọn đối
tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn
thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
2.2. Các phương thức giao dịch trong kinh doanh xuất khẩu hàng hóa
Trên thị trường thế giới, đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch trong
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm
và kỹ thuật tiến hành riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng,
thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp
chọn phương thức giao dịch phù hợp, chủ yếu là các phương thức sau đây:
-Giao dịch trực tiếp.
-Giao dịch qua trung gian.
-Phương thức buôn bán đối lưu.
-Đấu giá quốc tế.
-Đấu thầu quốc tế.
-Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa.
-Giao dịch tại hội chợ và triển lãm.
-Phương thức kinh doanh tái xuất khẩu.
3. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu

-Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua.
Trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản, đơn đặt hàng của người
mua và văn bản xác nhận của người bán.
-Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thỏa thuận trước đây giữa các bên
(nêu rõ các điều khoản đã thỏa thuận).
Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp được các bên ký
vào hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng.
Hợp đồng được coi như ký kết chỉ khi những người tham gia ký có đủ
thẩm quyền ký vào các văn bản đó, nếu không hợp đồng không được công nhận
là một văn bản có cơ sở pháp lý.
4. Thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự
công việc phải làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gây nên thiệt hại. Tất
cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại. Phải yêu cầu đối phương thực hiện
các nhiệm vụ theo hợp đồng.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu

Khi nghiên cứu trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần lưu ý:
-Tùy thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất nhập khẩu phải thực hiện
các nghiệp vụ khác nhau. Trình tự thực hiện các nghiệp vụ cũng không cố định.
Trên cơ sở nắm chắc các khâu nghiệp vụ mà tìm hiểu yêu cầu nghiệp vụ của
từng giai đoạn cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng.
-Trong khâu nghiệp vụ cụ thể có thể là nghiệp vụ của người bán hay
người mua phụ thuộc vào cách quy định điều kiện cơ sở giao hàng ghi trong
hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký kết.
Quá trình thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu gồm:
- Xin giấy phép xuất khẩu hàng hóa
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu
- Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá xuất khẩu

tích mặt nước 1triệu km
2
, trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng
hiện tại mới chỉ khai thác được khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.
Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha
mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000
ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng
suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng suất của các nước trong
khu vực.
Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng
100 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng
thềm lục địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67
triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài cá:
-Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.
-Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.
-Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.
Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như
sau:
-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn
(chiếm 16,3%).
-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560
tấn(chiếm 14,3%).
-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác:
830.456 tấn (chiếm 49,3%).
-Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272
tấn (chiếm 12,1%).
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai
thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế
của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm,
30.000- 40.000 tấn mực.

vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu
hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
-Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ
thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung
cấp hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các
công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du
nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
-Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn
vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ
chế “ lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai
thác và nuôi trồng “, qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa
đến nay, sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ
với một số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi
quốc tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là thành
viên của NACA từ năm 1988, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia vào hoạt
động của ICLARM, quan sát viên của INFOFISH, cũng như sự hiện diện của
nghề cá thế giới. Đó là những nhân tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta.
Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền kinh tế quốc
dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng
vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có
sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp
của ngành thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì
tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ
phận dân cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào
nghề cá và nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.
2.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu
Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có
sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim
ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó
thể hiện rõ nét qua bảng số liệu sau:

năm 2010.
2.3 Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm
Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường
xuyên cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số lao động thủy
sản là 3,03 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm
nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm
8,7% dân số sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng
như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người.
Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường
xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người.
Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu
người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản
khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề
cá khoảng 1.991.868 người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên
khoảng 8,1 triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa,
thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và
nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên.
Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng
thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là số dân được
ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.
III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ LUẬT PHÁP VÀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM CỦA EU ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM:
EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt với
tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị 91/493/EEC ban
hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có
điều kiện sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và
phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực
phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và
cách sử dụng sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã

nước thuộc Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường
gồm 380 triệu người tiêu dùng.
Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đã bị xóa
bỏ, do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường
chung Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà còn là thị
trường nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu
Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động
như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam Á là vùng
hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập
khẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc
với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ
nhưng những chính phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng
không bao giờ chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu.
Tất cả 15 chính phủ đều tuân theo một đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm
nổi bật của các nước EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước đều
tăng trưởng, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng ổn định. Điều đó thể hiện cụ thể
qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại
các nước EU năm 1999 - 2000 (%)
Tên nước 1998 1999 2000
Áo
3,3 2,5 3,0
Bỉ
2,9 2,0 2,3
Anh
2,3 1,0 1,5
Đức
2,8 2,0 2,5

EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các
khu vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng
năm một người dân EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cá nhân.
3. Về thói quen tiêu dùng
EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ
an toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán
được ở thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn
thế giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm
khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia,
Hà Lan. Do vậy nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là
thị trường khó tính và có chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn
chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6
năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản
xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ
quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói
phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản
phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để
nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc
do tác dụng của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.
3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU
Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà
hàng và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. Ở nhiều nước, mảng
thị trường này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà
hàng hay gia đình thì đều phải qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua.
Giữa các nước, thói quen ăn uống rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu
người dao động từ 15- 17 kg. Việc thay đổi lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn
uống và thói quen mua bán. Nhiều phụ nữ ngày nay đi làm chứ không ở nhà nên
họ đánh giá cao sự tiện lợi của các thực phẩm ăn liền, thường là ở dạng đóng gói
đông lạnh. Cũng như vậy, mức tiêu thụ sản phẩm đông lạnh tại nhà hàng và dịch

các nước đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới và tăng xuất khẩu
các sản phẩm có giá trị, phát triển sản xuất phù hợp hóa sản phẩm. Muốn thâm
nhập vào thị trường EU, cần phải tính đên sự thống nhất của thị trường này với
đồng Euro từ năm 1999, EU cũng có quy chế ưu đãi riêng đối với nhập khẩu từ
các nước ACP với việc miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu thủy sản theo hệ thống
thuế ưu đãi phổ cập GSP.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA NƯỚC TA SANG
EU TRONG THỜI GIAN QUA
1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU
nào có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi
nhiều nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia
thị trường này thì thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích
và hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều
kênh mậu dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các
kênh mậu dịch và các bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ
có thể được thực hiện bởi các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn
một kênh và bạn hàng thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn
nhiều kênh khác nhau trong thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực
tiếp với người sử dụng cuối cùng, còn một số khác lại bán cho các nhà kinh
doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc qua các đại lý bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu
Âu. Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài
với người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước
ngoài) để biết được những nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử
dụng cuối cùng. Họ cung cấp trực tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các
nhà sản xuất thành phẩm. Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch
quảng cáo và phục vụ những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà

Năm1999
(USD)
Chênh lệch
± USD
Anh
14.086.283 9.527.170 -4559.113
Áo
293.684 129.385 -164.299
Bỉ
19.076.000 25.466.772 +6.390.772
Bồ Đào Nha
92.873 126.189 +33.316
Đan Mạch
1.625.599 679.329 -946.270
Đức
10.034.280 10.840.216 +805.936
Hà Lan
27.675.547 23.187.799 -4.487.748
Italia
7.388.718 9.923.270 +2.534.808
Phần Lan
- 52.268 -
Pháp
8.218.718 5.568.664 -2.650.054
Tây Ban Nha
2.483.196 2.898.832 +415.636
Thụy Điển
563.134 713.565 +150.431
Tổng
91.537.776 89.113.459 -2.424.317

giá trị nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam của Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Italia, Tây
Ban Nha, Thụy Điển và Phần Lan. Đặc biệt là Bỉ, giá trị nhập khẩu thủy sản
năm 1999 so với năm 1998 đã tăng 6.390.772 USD (tăng 25,1%). Bồ Đào Nha
năm 1998, trị giá nhập khẩu thủy sản Việt Nam là 92.873 USD, đã tăng lên
126.189 USD vào năm 1999 (tăng 26,4%); Đức tăng 7,4% (tăng 805.936 USD).
Italia có mức tăng rất lớn là 2.534.808 USD (tăng 26%); Tây Ban Nha tăng
14,3% (tăng 415.636 USD); Thụy Điển từ mức giá trị nhập khẩu là 563.134
USD năm 1998, đã tăng lên 713.565 USD năm 1999 (tăng 21%).
Với 5 nước trong tổng số 12 nước nhập khẩu thủy sản của Việt Nam có
mức giá trị nhập khẩu giảm rất mạnh so với năm 1998, đã tác động rất lớn đến
tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU trong năm 1999. Mặt khác,
những nước còn lại có tổng mức gia tăng không đáng kể so với tổng mức suy
giảm của 5 nước trên.
Sự suy giảm trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của EU năm 1999 chịu
sự tác động mạnh mẽ của tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước EU. Mặt khác,
tiêu chuẩn chất lượng cho hàng thủy sản mà EU áp dụng vẫn là bài toán nan giải
cho thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU
Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang thị trường
EU. Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam.
Nhập khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các
sản phẩm thủy sản khác.
Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều thông qua
các công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng Kông.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại, trong
đó: tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650 tấn, thủy sản
khác là 6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đã thông qua quyết định bắt đầu
từ năm 1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò, hến...) từ nhiều nước
trong đó có Việt Nam, vì EU chưa kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế
biến ở các nước xuất khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy

321,5 tấn hay tăng 2,79%, nhưng về giá trị kim ngạch thì đã tăng 28% hay tăng
15.003.088 USD. Điều này chứng tỏ, sản phẩm thủy sản xuất khẩu mạnh nhất
của Việt Nam sang tất cả các thị trường trên thế giới vẫn là con tôm. Năm 1998,
xuất khẩu tôm đông lạnh đạt giá trị 450 triệu USD, chiếm 55% tổng giá trị xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam. Vì tôm là một mặt hàng có giá trị cao và nhu cầu
tăng trưởng mạnh trên thế giới, do đó có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam tập
trung kinh doanh duy nhất mặt hàng này. Năm 1998, Việt Nam đã xuất sang
Nhật Bản 30.842 tấn tôm, Mỹ: 6.125 tấn, EU được 11.849 tấn (nếu khai thông
hoàn toàn thị trường này hẳn giá trị còn tăng hơn nữa, vì vào thời điểm này vẫn
còn quá nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có “ CODE “ xâm nhập vào EU),
Hồng Kông: 7.132 tấn, Trung Quốc: 313 tấn và các thị trường khác là 8.712 tấn.
Về sản phẩm mực đông, năm 1998 tăng so năm 1997 là 35,64 tấn hay
tăng 2,16%, nhưng về giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 80% so với năm
1997 hay chỉ đạt 4.067.693 USD. Điều này là do công nghệ chế biến mực hiện
nay của ta đã có nhiều cải tiến, song việc tạo ra những sản phẩm có giá trị cao
vẫn còn hạn chế, chủ yếu là xuất nguyên liệu.
Về sản phẩm cá đông lạnh, năm 1998 sản lượng xuất khẩu là 3432,5 tấn,
tăng 724,5 tấn so với năm 1997 trong khi giá trị kim ngạch là 15.176.655 USD,
tăng 81,27% so với năm 1997 và bằng 230% các chỉ tiêu tương ứng của 5 năm
trước. Có được sự gia tăng này là do mặt hàng cá đông lạnh của Việt Nam ngày
càng đáp ứng được nhu cầu cao của thị trường EU (nhất là cá bơn, cá ba sa Việt
Nam), cho nên đã tác động tốt tới giá cả xuất khẩu, tới tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu. Năm 1998 là năm mà sản phẩm cá đông lạnh Việt Nam có sự tăng
trưởng cao ở thị trường EU và thị trường Mỹ.
Các sản phẩm thủy sản khác như: mực khô, bạch tuộc, cá hộp, cá hun
khói... năm 1998 giảm 629,64 tấn so với năm 1997 là bởi vì các sản phẩm này
có giá trị không cao, ít doanh nghiệp Việt Nam tham gia kinh doanh. Các doanh
nghiệp chỉ tập vào các sản phẩm có giá trị cao như tôm đông, cá đông nên đã tác
động rất lớn đến tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU năm 1998.
Năm 1999, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU của Việt Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status