phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường thành phố hà nội hiện nay - Pdf 10

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ thời kỳ nào, chất lợng đội ngũ đảng viên có tầm quan
trọng rất lớn đối với toàn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam. Đây không
phải là công tác riêng của Trung ơng hay của một vài tổ chức trọng điểm nào
đó, mà cần phải tiến hành thờng xuyên ở tất cả các đảng bộ, chi bộ. Đây cũng
là nhiệm vụ chung cho mỗi cấp ủy, toàn thể cán bộ, đảng viên; vì vậy, chất l-
ợng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên là một nội
dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng - nó quyết định đến năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở và toàn Đảng nói chung.
Cách mạng nớc ta đang trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, thực hiện mục tiêu: Dân giàu, n-
ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bớc tiến lên chủ nghĩa
xã hội với những cơ hội và thách thức mới. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng
to lớn đó đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, khó khăn và đòi hỏi Đảng nói
chung, đội ngũ đảng viên của Đảng nói riêng phải không ngừng đổi mới,
chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực
mới đáp ứng đợc vai trò lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng là do
các đảng viên tổ chức nên, đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã khẳng định điều đó; do đó, Đảng phải chăm lo công tác
xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên.
Thành phố Hà Nội là thủ đô của cả nớc, là địa danh tiêu biểu cho lịch
sử ngàn năm văn hiến của dân tộc ta. Kinh tế của Thủ đô đã phát triển nhanh
và khá toàn diện; cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đã hình
thành rõ rệt và đang chuyển dịch sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp
theo hớng hiện đại hoá. Là một trung tâm kinh tế lớn của cả nớc nên đã tạo đà
1
cho sự phát triển mạnh mẽ về mọi lĩnh vực, không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà
còn ở tất cả các lĩnh vực khác. Đặc biệt, Đảng bộ và nhân dân Thủ đô vô cùng
tự hào, phấn khởi đợc Đảng, Nhà nớc hai lần trao tặng thởng Huân chơng Sao
vàng và là thành phố đợc phong tặng danh hiệu cao quý "Thủ đô anh hùng",

trong các văn kiện của Đảng.
- Các công trình khoa học:
+ PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS,TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên)
(Nxb CTQG - 2003): "Làm ngời cộng sản trong giai đoạn hiện nay".
+ TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) ( Nxb Văn hoá dân tộc - 2003): "Phát
huy vai trò đội ngũ đảng viên là ngời nghỉ hu khu vực nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay".
+ PGS,TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (NXb CTQG - 2004): "Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phờng ở Thủ đô Hà Nội
hiện nay".
- Nhiều đề tài nghiên cứu sinh nghiên cứu về vấn đề này nh:
+ Đặng Đình Phú (1996): "Nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên ở
các tổ chức cơ sở đảng phờng, xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay" -
Luận án phó tiến sĩ.
+ Cao Thị Thanh Vân (2002): "Nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên
ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc" - Luận án tiến sĩ.
+ Nguyễn Văn Giang (2002): "Nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên
vùng có đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ trong giai
đoạn hiện nay" - Luận án tiến sĩ.
3
- Nhiều đề tài của các học viên cao học cũng đã nghiên cứu nh:
+ Trần Văn Chơng (1995): "Suy nghĩ bớc đầu về kinh nghiệm xây
dựng Đảng bộ phờng từ yếu kém vơn lên vững mạnh trong sạch" - Luận văn
thạc sĩ.
+ Nguyễn Hữu ái (1995): "Suy nghĩ về thực trạng và biện pháp nâng
cao chất lợng đảng viên của thành phố Đà Nẵng (từ khi triển khai Nghị quyết
Trung ơng 3 đến nay (1993 - 1995))" - Luận văn thạc sĩ.
+ Đặng Thị Minh Hảo (2003): "Nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên
trong các trờng trung học phổ thông ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay" - Luận

việc đi sâu vào một số phờng trọng điểm.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chất lợng đội ngũ
đảng viên là cán bộ chuyên trách và công tác đảng viên đối với ĐNĐV là
CBCT của các đảng bộ phờng của 9 quận thành phố Hà Nội thời gian từ năm
2000 đến nay và đề xuất phơng hớng, giải pháp nâng cao chất lợng đội ngũ
đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phờng từ nay đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng
Đảng nói chung, về vấn đề nâng cao chất lợng đội ngũ đảng viên nói riêng,
nhất là đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách; đồng thời kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã đợc công bố.
- Phơng pháp nghiên cứu: Đề tài đợc sử dụng chủ yếu dựa trên cơ sở
phơng pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa
5
lý luận và thực tiễn, logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội
học, đặc biệt coi trọng phơng pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lợng đội
ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phờng thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra những phơng hớng và đề xuất đ-
ợc những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nâng cao chất lợng đội ngũ đảng
viên là cán bộ chuyên trách ở các phờng thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cấp uỷ đảng ở các
đảng bộ phờng thành phố Hà Nội nghiên cứu, vận dụng nhằm nâng cao chất l-
ợng đội ngũ đảng viên.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy
trong trờng đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong và các trung tâm bồi dỡng chính trị
cấp quận thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu đề tài

ngoại của cả nước. Hai mươi năm đổi mới là hai mươi năm phát triển, đi đúng
định hướng và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, đưa sự nghiệp
đổi mới của Hà Nội đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, chuyển biến
cơ bản trong đời sống xã hội.
Với 920,97 km
2
, bằng 0,28% diện tích tự nhiên của cả nước và khoảng
3.118.200 dân số trong 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, chiếm 3,6%
dân số cả nước.
7
Toàn TPHN có 128 phường trong 9 quận nội thành của Hà Nội.
Phường là cấp hành chính cơ sở ở nội thành - đặc biệt đối với phường của thủ
đô Hà Nội lại càng có vai trò quan trọng hơn trong việc lãnh đạo, phổ biến và
tổ chức, quản lý, động viên quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước cũng như các nhiệm vụ của
địa phương thông qua đó, để đưa được các đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương đó
vào cuộc sống, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong phường. Từ việc thực hiện được những chủ
trương, đường lối, chính sách sẽ tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, vận động nhân dân làm tròn nghĩa
vụ công dân đối với nhà nước.
Vai trò của phường ở Hà Nội được Đảng ta và TUHN nhất quán
khẳng định bằng những phương pháp, chủ trương và việc làm cụ thể thích
hợp từ sau khi Hà Nội được giải phóng.
Hiến pháp năm 1980 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định, đơn vị hành chính ở Hà Nội chia thành 3 cấp. Riêng ở nội thành,
dưới thành phố là cấp quận và dưới cấp quận là cấp phường. Quyết định số
94/HĐBT ngày 26/9/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: "Phường là đơn
vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường

(gọi tắt là quận), thành phố trong quản lý dân cư, quản lý xã hội,
quản lý đô thị [46, tr. 10].
Qua 20 năm đổi mới, qua 20 năm thực hiện nhiệm vụ chính trị mới mà
Đảng và nhà nước giao trên địa bàn thủ đô, vị trí và vai trò của các phường
TPHN ngày càng được nhận thức và phát triển sâu sắc hơn, được thể hiện rõ
trên thực tế thực hiện công cuộc đổi mới. Các phường TPHN đã đóng góp to
9
lớn trong phát triển kinh tế, quản lý đô thị, khắc phục được những tệ nạn xã
hội do phần lớn của sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, giải quyết
những vấn đề xã hội trên địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, góp phần quan trọng vào thành tựu công cuộc đổi mới của Thủ đô.
Như vậy, phường bên cạnh vai trò là nơi phổ biến, tổ chức, quản lý,
động viên quần chúng nhân dân trong phường thì còn có vai trò trong việc
bảo đảm ổn định chính trị, chống lại những luận điệu xuyên tạc đối với đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cấp phường
là cấp cơ sở cuối cùng trong hệ thống chính trị và là nơi tiếp nhận những ý
kiến, những thắc mắc rất đời thường của quần chúng nhân dân trên những vấn
đề đang diễn ra về văn hoá, giáo dục, y tế; về kinh tế; về an ninh, quốc phòng;
về quản lý dân cư và xã hội; về quản lý lao động; về quản lý nhà, đất đai (đây
là vấn đề nóng bỏng, đang diễn ra khá phức tạp hàng ngày, hàng giờ - đặc biệt
là ở một số xã vừa được chuyển lên phường khi Hà Nội mở rộng, phát triển
thêm những quận mới). Những vấn đề này liên quan tới cuộc sống hàng ngày
của người dân, nếu các phường không giải quyết triệt để, tận gốc, hợp tình,
hợp lý thì sẽ xảy ra vấn đề khiếu kiện kéo dài, thậm chí sẽ vượt cấp điều
này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới vai trò lãnh đạo của các đảng bộ phường,
các quận uỷ, TUHN nói riêng cũng như của toàn Đảng ta nói chung. Cũng
thông qua những sơ hở trong việc giải quyết không ổn thoả những vấn đề tồn
tại hiện nay rất có thể sẽ tạo đà cho các âm mưu và thế lực thù địch muốn phá
hoại hệ thống chính trị ở cơ sở, lợi dụng những bức xúc trong nhân dân mà lôi
kéo, xúi bẩy, khiếu kiện đông người

về quản lý đô thị, xây dựng thành phố văn minh, lịch sự, bài trừ các tệ nạn xã
hội, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục
Bởi đây là nơi gần dân nhất, là nơi nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, vì thế đây là nơi mà Đảng cần tăng cường hơn nữa
11
mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Qua đó, Đảng mới có thể sửa đổi, bổ
sung đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn hơn và đề ra chủ trương,
chính sách mới sát hợp với phường.
Đặc điểm 2: Phường ở Hà Nội là phường của Thủ đô - trái tim của Tổ
quốc Việt Nam, là trung tâm đầu não chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục,
khoa học, công nghệ và giao dịch quốc tế; hơn nữa, các phường TPHN còn
là nơi tập trung rất nhiều các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh đồng
thời còn là nơi tập trung rất nhiều các cơ quan đầu não của trung ương,
thành phố, các bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, công ty và là nơi ở của các
cán bộ cấp cao của trung ương và Hà Nội.
Đây là thế mạnh và đặc điểm riêng có của nhiều phường ở thủ đô Hà
Nội. Các phường có điều kiện thuận lợi trong việc trực tiếp quan hệ với các
cơ quan trung ương, các doanh nghiệp, các công ty, trường học để phối hợp
hoạt động giữa phường với các cơ quan đó trong hoạt động giữa phường với
các cơ quan đó trong hoạt động xây dựng phường, tạo điều kiện cho phường
phát triển, hoạt động đạt kết quả cao.
Hơn thế, những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh với những nét
riêng của thủ đô Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để các phường phát triển
văn hoá, nâng cao dân trí, cũng như phát triển du lịch, dịch vụ để tăng thu
ngân sách cho phường. Trong gần 1000 năm phát triển, Hà Nội luôn là trung
tâm văn hoá của cả nước. Hệ thống di sản văn hoá tập trung với mật độ cao,
trên địa bàn Hà Nội có 1.744 di tích lịch sử văn hoá (2 di sản/km
2
), trong đó
có 499 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 308 di tích đang được đề nghị xếp

được thành lập nhiều tập trung ở các phường trong TPHN. Do vậy, các
phường ở Hà Nội không còn dáng vẻ của thời bao cấp trước kia mà đã phát
triển từ nhiều hình thức khác nhau, từ việc sản xuất quy mô nhỏ trong gia
đình như hộ sản xuất cá thể, hộ kinh danh nên có thể nhận thấy kinh tế của
13
các phường TPHN chủ yếu là tiểu thương. Nhưng thuế và ngân sách nộp cho
phường, nhà nước không phải là nhỏ.
Do đó, sự đa dạng, phong phú của các thành phần kinh tế trên địa bàn
phường ở Hà Nội là điều kiện quan trọng thúc đẩy nền kinh tế ở Hà Nội phát
triển, nhưng lại đặt ra yêu cầu lớn `hơn nữa trong việc quản lý kinh tế. Tuyên
truyền, vận động và tạo điều kiện cho các hộ gia đình, các tổ sản xuất, hợp tác
xã, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh theo đúng quy định của pháp
luật, nhất là việc kê khai, nộp thuế cho nhà nước theo đúng quy định. Đồng
thời, tham gia phối kết hợp với các ngành, cơ quan chức năng, chuyên môn để
quản lý vấn đề sản xuất, kinh doanh trên địa bàn mình.
Đặc điểm 4: Số lượng dân cư trên địa bàn phường rất lớn, cơ cấu khá
đa dạng
Tháng 12 năm 1999, dân số Hà Nội là 2.675.166 người, trong đó số
người sống tập trung ở các phường trong nội thành là 1.523.936 người thì đến
cuối tháng 12 năm 2005, dân số Hà Nội là 3.118.200 người, trong đó số người
sống tập trung ở các phường trong nội thành là 2.011.766 người. Số lượng
dân ở các phường nội thành nhiều gấp đôi ở các xã ngoại thành của Hà Nội.
Nhưng điều đáng chú ý ở đây lại là dân "gốc" Hà Nội không nhiều, dân sống
ở Hà Nội hiện nay lại là do làn sóng người di dân cơ học từ các tỉnh đã gây
nên sự hỗn hợp, phức tạp trong lối sống, văn hoá, ảnh hưởng đến nếp sống thanh
lịch, văn minh của người Hà Nội. Bởi các phường ở Hà Nội lại là nơi tập trung
các nguồn nhân lực không có việc làm từ các vùng nông thôn, miền núi quanh
Hà Nội. Đó là do sức hút của quá trình phát triển kinh tế, Hà Nội trở thành nơi
hội tụ dòng di cư tự do. Đặc biệt, quá trình đô thị hoá đã tạo ra các dòng di dân,
người ở tỉnh ngoài về Hà Nội tìm kiếm việc làm (có lúc lên đến 13 vạn người),

ở các phường của quận Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên). Nhiều phường
trong thành phố vừa có phố lại vừa có làng như phường Việt Hưng, phường
15
Đức Giang; phường Định Công, phường Lĩnh Nam , có phường lại tập trung
chủ yếu là cán bộ trung, cao cấp nghỉ hưu như phường Trần Hưng Đạo,
phường tập trung một số lượng lớn là bộ đội cả tại ngũ lẫn về hưu như
phường Nghĩa Tân Vì thế, mức sống của người dân trong từng phường đều
khác nhau. Có những phường tập trung buôn bán thì người về hưu, nghỉ chế
độ vẫn có thể tham gia làm ăn, góp phần nuôi sống gia đình, phát triển kinh tế
phường nói chung Nhưng cũng có nơi khi người cán bộ công nhân viên
chức về hưu, thì rất khó có thể làm được việc gì, bằng đồng lương hưu mà
Nhà nước trả cho họ sau thời gian công tác thì cuộc sống của họ sẽ khá khó
khăn, chất lượng cuộc sống nhiều khi không đảm bảo
Chính những điều trên đã thể hiện sự phong phú, đa dạng, tính chất
đan xen của các phường ở Hà Nội hiện nay.
1.1.2. Đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các phường
thành phố Hà nội hiện nay - quan niệm, vai trò và đặc điểm
1.1.2.1. Quan niệm, vai trò của ĐNĐV là CBCT ở các phường
TPHN hiện nay
* Quan niệm về ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN
Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX đề ra nghị quyết: "Về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn" chỉ ra vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có Nghị quyết riêng về xây dựng hệ thống chính
trị ở cơ sở. Trong văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá IX đã nêu rõ:
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời
gian lao động làm việc để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
- Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của
cấp uỷ đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, những người đứng
đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

* Vai trò của ĐNĐV là CBCT các phường TPHN hiện nay:
Phường là nơi hội tụ sự chỉ đạo của các ngành, các cấp, các đoàn thể
thuéc hệ thống ngành dọc từ trên xuống. ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN
phải là hệ trung tâm, chủ thể giải quyết và phối hợp các mối quan hệ nêu trên.
Để đạt được điều đó, đòi hỏi họ phải có khả năng giải quyết công việc đảm bảo
theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp
trên. Họ phải là những người chịu trách nhiệm chính trước Đảng, Nhà nước và
trước nhân dân. Đồng thời là người trực tiếp giải quyết các vấn đề, nguyện vọng
của đảng viên, quần chúng; là cầu nối giữa Đảng với nhân dân nên đòi hỏi họ
phải có phẩm chất trí tuệ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng lãnh đạo quản lý của ĐNĐV là CBCT là yêu cầu cơ bản, là vấn
đề cấp thiết nhằm đáp ứng nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho.
Quá trình đổi mới thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đã tác động mạnh mẽ đến các phường của TPHN. Bước chuyển biến này có
sự đóng góp quan trọng của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN hiện nay;
vừa đặt ra yêu cầu cao đối với đội ngũ này để hoàn thành nhiệm vụ chính trị
được giao. Đây là đội ngũ được hình thành do kết quả bầu cử của các kỳ Đại
hội ở các tổ chức cơ sở đảng và các kỳ bầu cử HĐND, UBND.
Do vậy, ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN vừa phải đáp ứng yêu
cầu của người đảng viên, vừa phải đáp ứng được yêu cầu của người cán bộ cơ
sở. Do đó, vai trò của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN tập trung vào
những vai trò chính sau:
Vai trò thứ nhất: ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN không những
là những người tiên phong trong phong trào của quần chúng mà còn là người
lãnh đạo, quản lý, đồng thời còn là người tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chính trị được giao.
Điều này thể hiện rất rõ trong các công việc hàng ngày, nơi ĐNĐV là
CBCT ở các phường TPHN thường xuyên gặp gỡ, trao đổi công việc với nhân
18
dân. Họ cần phải thể hiện được sự tiên phong, thể hiện được sự lãnh đạo,

Hai là, quyền lực chính trị được giao. Quyền lực không chỉ tập trung
ở một người mà được tập trung ở một nhóm người. Cần phải biết tập trung
sức mạnh quyền lực của nhóm người đó để có thể lãnh đạo, quản lý và tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao một cách có hiệu quả.
Ba là, khả năng lãnh đạo, quản lý và điều hành công việc. ĐNĐV là
CBCT ở các phường TPHN phải thật sự là đầu tàu gương mẫu, bất cứ công
việc gì cũng không được nề hà. Qua đó mới có thể quản lý, lãnh đạo và điều
hành công việc được. Ở cơ sở, quần chúng nhân dân không thể chấp nhận
người lãnh đạo, quản lý của mình chỉ nói mà không làm, chỉ tay với công việc
mà không dám xông pha vào công việc. Có như vậy, mới có thể điều hành
được mọi việc đảm bảo được yêu cầu đặt ra.
Vai trò thứ hai: ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN là những người
hàng ngày trực tiếp tiếp xúc với dân, sống cùng dân, đưa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những chủ trương,
chính sách của thành phố, các quận vào cuộc sống, biến những chủ trương,
chính sách đó thành hiện thực.
Qua quá trình thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách đó,
ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN cùng với nhân dân còn phát hiện những
thiếu sót của chủ trương, đường lối, chính sách để kiến nghị và đề xướng
những giải pháp điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nó, góp phần hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng, cơ chế quản lý của Nhà nước.
Các phường trên địa bàn TPHN đang tập trung tiến hành triển khai
sâu, rộng chương trình "Toàn dân xây dựng gia đình văn hoá" và đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ.
20
Việc thực hiện chủ trơng, chính sách chung có hiệu quả, không chỉ
làm cho các phờng phát triển, mà còn tạo cơ sở cho sự phát triển chung của
các quận và cả thành phố. Chủ trơng, chính sách của cấp trên dù đúng đắn, nh-
ng năng lực trí tuệ của đội ngũ cấp cơ sở mà không đáp ứng yêu cầu, ý thức
trách nhiệm của họ không cao, thì không thể cụ thể hoá đợc chủ trơng, chính

nhân dân, thực sự đảm bảo được sự đoàn kết nhất trí trong toàn đảng bộ, chi
bộ mà mình đang sinh hoạt. ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN còn là
người trực tiếp lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của quần chúng, góp ý, trao
đổi cũng như đưa ra những ý kiến cuối cùng để đảm bảo được uy tín của
Đảng nói chung, của đảng bộ phường mình nói riêng trong việc giữ gìn đoàn
kết thống nhất trong toàn phường.
Do đó, ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN là nhân tố quan trọng ở
cấp cơ sở, nơi gần dân nhất, nơi lắng nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân - thể hiện được mối quan hệ giữa Đảng và dân. Không ở nơi nào
có ảnh hưởng lớn bằng cấp cuối cùng này, bởi người dân không thể biết được
hết cấp quận, huyện như thế nào, và cả cấp thành phố, cấp tỉnh ra sao nhưng
đối với cấp xã, phường, thị trấn - những CBCT sẽ được người dân biết đến
nhiều hơn thông qua cuộc sống hàng ngày, giải quyết những vấn đề về đất
đai, ruộng vườn , những xích mích của hàng xóm láng giềng.
Thực tế cho thấy ở phường, xã, thị trấn nào giải quyết được những vấn
đề về đất đai, ruộng vườn, , những xích mích trong quan hệ hàng xóm láng
giềng thì ở nơi đó sẽ ổn định, vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng
viên, người CBCT được đề cao, nâng cao và thể hiện rất rõ nét.
1.1.2.2. Đặc điểm của ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN giai
đoạn hiện nay
Là đội ngũ chủ chốt ở cấp cơ sở của thủ đô Hà Nội, ĐNĐV là CBCT
ở các phường TPHN có những đặc điểm nổi bật sau:
22
Thứ nhất, ĐNĐV là CBCT là đội ngũ tương đối trẻ, chủ yếu vẫn còn
đương chức, công tác tại cơ quan phường là Văn phòng đảng uỷ, UBND, HĐND.
Mặc dù số lượng đảng viên của toàn TPHN là 88.617 trong 229 xã,
phường, thị trấn thuộc 14 đảng bộ quận, huyện nhưng đảng viên là cán bộ
đương chức chỉ có 14.619 (chiếm 16,49%); đảng viên là cán bộ hưu trí chiếm
tới 73.998 (chiếm 83,50%) [1, tr. 3]. Như vậy, số lượng đảng viên là CBCT
lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ, bởi đa số đảng viên trong các phường của TPHN là

TPHN. Đối với chức danh Chủ tịch Hội Nông dân thường tập trung ở các
phường chuyển đổi từ xã lên mới có Hội Nông dân. Trong 04 quận đầu tiên
của Hà Nội hiện nay không có số CBCT theo chức danh này Vì vậy, trong
khoảng gần 2.000 CBCT ở cả 128 phường của TPHN hiện chỉ có 35 đồng chí
giữ chức vụ Chủ tịch Hội Nông dân. Trong quận Thanh Xuân chỉ có 03 đồng
chí giữ chức vụ này thì cả 03 đồng chí này đều là nữ [11, tr. 3]; ở quận Long
Biên có đủ 14 đồng chí, quận Hoàng Mai chỉ có 09 đồng chí do có 5 phường
tách ra từ quận Hai Bà Trưng, quận Tây Hồ cũng chỉ có 05 đồng chí (tác
giả luận văn khảo sát trực tiếp tại các địa bàn trên).
Thứ tư, ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN thời gian làm việc
không chỉ 8h/ngày và 5 ngày / tuần mà thường là thời gian làm việc gần như
liên tục, hầu như không có ngày nghỉ.
Đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính, sự
nghiệp thường không vất vả bằng ĐNĐV là CBCT ở các phường TPHN vì họ
được làm việc theo thời gian nhất định. Chỉ trừ một vài trường hợp bất khả
kháng thì họ phải làm thêm giờ. Ngược lại, ĐNĐV là CBCT ở các phường
TPHN lại không có thời gian rảnh rỗi nhiều, công việc của họ đa phần rất lặt
vặt, yêu cầu phải có thời gian và độ tỷ mỷ cao. Xin đơn cử như để thực hiện
tốt phong trào "Xây dựng đời sống gia đình văn hoá" ở các hộ gia đình trong
toàn phường, phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng đã tiến hành tổng kết 2 năm
24
thc hin phong tro ny. Mun vy, phi tp trung nm bt tõm t, nguyn
vng v nhng yờu cu chớnh ỏng ca ngi dõn trong phng. lm c
iu ú, NV l CBCT ca phng ó tin hnh t tham gia hp t dõn
ph vi cỏc t trong phng. Nh vy, bờn cnh thi gian 8h/ngy thỡ n ti
hoc vo ngy ngh: th by, ch nht; NV l CBCT c chia ra i
nm bt tỡnh hỡnh chung ca tng t trong phng.
Thi gian lm vic khỏ kớn, nhng NV l CBCT vỡ cú lũng say mờ
vi cụng vic, vi mong mun to iu kin thỳc y tỡnh hỡnh phỏt trin kinh
t, chớnh tr, xó hi trong phng i lờn nờn h khụng n h v sn sng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status