Đánh giá hiệu quả tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-1010.Để nâng cao hiệu quả tăng trưởng, cần quan tâm giải quyết các vấn đề gì - Pdf 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
o0o
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Đề tài: Đánh giá hiệu quả tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-
2010. Để nâng cao hiệu quả tăng trưởng, cần quan tâm giải quyết các vấn
đề gì?
Nhóm 8: Lê Mai Phương
Ngô Thanh Phương
Nguyễn Minh Phương
Nguyễn Hữu Quân
Lý Minh Quang
Chu Hà Thanh
Lớp: CH21D

Hà Nội – 2013
LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông
nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Những thành tựu đạt được

1.1. Khái niệm và đo lường tăng trưởng kinh tế.
1.1.1. Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm).
Gần đây, khái niệm này được định nghĩa theo hướng mở rộng: Tăng trưởng là sự
gia tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định, đồng thời là sự gia tăng các
nhân tố sản xuất được sử dụng trong điều kiện trạng thái kinh tế vĩ mô tương đối ổn
định.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế:
1.1.2.1. Các chỉ tiêu tổng quát:
1.1.2.1.1.Tổng sản phẩm quốc nội:
Tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product). GDP là
giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi
một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Phương pháp tính GDP:
Phương pháp chi tiêu: Theo phương pháp chi tiêu, tổng sản phẩm quốc nội của
một quốc gia là tổng số tiền mà các hộ gia đình trong quốc gia đó chi mua các hàng hóa
cuối cùng. Như vậy trong một nền kinh tế giản đơn ta có thể dễ dàng tính tổng sản phẩm
quốc nội như là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng hàng năm.
GDP=C+G+I+NX
 C là tiêu dùng của hộ gia đình
 G là tiêu dùng của chính phủ
 I là tổng dầu tư
 I=De+In
 De là khấu hao
 In là đầu tư ròng
 NX là cán cân thương mại
 NX=X-M
 X (export) là xuất khẩu
 M (import) là nhập khẩu

kỳ đó. Do vậy còn gọi là GDP theo giá hiện hành
GDP
i
n
=∑Q
i
t
P
i
t
Sự gia tăng của GDP danh nghĩa hàng năm có thể do lạm phát.
Trong đó:
 i: loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3 ,n
 t: thời kỳ tính toán
 Q: số lượng sản phẩm ; Qi: số lượng sản phẩm loại i
 P: giá của từng mặt hàng; Pi: giá của mặt hàng thứ i.
GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng của năm nghiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc do đó còn gọi là GDP theo giá so
sánh.
GDP thực tế được đưa ra nhằm điều chỉnh lại của những sai lệch như sự mất giá của
đồng tiền trong việc tính toán GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng
thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP
tiền tệ" trong khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay GDP "điều chỉnh lạm
phát" hoặc "GDP theo giá năm gốc" (Năm gốc được chọn theo luật định).
1.1.2.1.2 Tổng sản lượng quốc gia:
GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng
quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh
tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và
dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông
thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước).

Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
1.1.2.2.1 Mức tăng trưởng tuyệt đối:
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.

K = Yt – Yo
Y : GNP, GDP
Yt : GDP, GNP tại thời điểm t của kỳ thời gian phân tích
Y : GDP, GNP tại thời điểm gốc của kỳ thời gian phân tích.
1.1.2.2.2 Tốc độ tăng trưởng:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%)
trong đó :
Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ
tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay
GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng
kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Phân biệt GDP với GNP:
GDP khác với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) ở chỗ loại bỏ việc chuyển đổi thu
nhập giữa các quốc gia, nó được quy theo lãnh thổ mà sản phẩm được sản xuất ở đó hơn
là thu nhập nhận được ở đó.
Để dễ hiểu hơn, ta có thể lấy ví dụ như sau: Một nhà máy sản xuất đồ ăn nhanh đặt
tại Việt Nam do công dân Mỹ đầu tư để tiêu thụ nội địa. Khi đó mọi thu nhập từ nhà máy
này sau khi bán hàng được tính vào GDP của Việt Nam, tuy nhiên lợi nhuận ròng thu
được (sau khi khấu trừ thuế phải nộp và trích nộp các quỹ phúc lợi) cũng như lương của
các công nhân Mỹ đang làm việc trong nhà máy được tính là một bộ phận trong GNP của

Giai đoạn 2006 – 2010 chứng kiến khá nhiều những sự kiện biến đổi lớn cả về kinh tế và
xã hội của Việt Nam.
Năm 2006: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Việt Nam sẽ bước
vào sân chơi thương mại toàn cầu từ 11/1/2007. Cuộc chơi trong WTO trọn vẹn hơn khi
vào những ngày cuối cùng của năm, Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) với Việt Nam. Trở thành thành viên WTO không chỉ là thành quả của 11
năm đấu trí bên bàn đàm phán, vận động hành lang mà còn là chứng chỉ cho hai thập kỷ
đổi mới, là tấm giấy thông hành để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, hội nhập
với thế giới.
Năm 2007: Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều
hơn thuận lợi so với các năm trước. Thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn
do sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá cả thế giới
kéo dài, gây hậu quả nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi đối với nền kinh tế
nước ta trong năm 2007.
Năm 2008: Thách thức kinh tế lớn nhất Việt Nam phải đối đầu trong năm qua là
lạm phát gia tăng, tới 23%, cao nhất trong gần 20 năm. Cạnh đó là thị trường xuất khẩu
thu hẹp, dòng vốn nước ngoài giảm sút, công ăn việc, nhất là tại các khu chế xuất, bị đe
dọa.
Năm 2009: Cơn bão suy thái kinh tế thế giới bắt đầu tư nước Mỹ hùng mạnh tràn
qua nhiều nước, từ châu Âu sang châu Á cuốn đi nhiều nỗ lực, thành quả và cả dự tính
của nhiều nước trong năm 2009. Hiệu ứng Domino đã xảy ra và Việt Nam không nằm
ngoài vòng xoáy, cũng hứng chịu những tác động xấu của cuộc suy thoái kinh tế ngay
những tháng đầu, quí đầu của năm 2009. Sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như: lạm
phát bùng trở lại, kinh tế suy thoái nhanh chóng, sự tuột dốc của thị trường xuất khẩu, thị
trường chứng khoán… ngay lập tức đến với Việt Nam nhanh và mạnh hơn cả suy đoán.
Việt Nam chúng ta phản ứng tức thời và nhanh chóng “giải cứu” sự suy thoái kinh tế
bằng gói kích cầu trị giá hơn 14.000 tỷ đồng, kèm với đó là hàng loạt những phản ứng
chính sách hợp lý, đặc biệt là Nghị quyết 30 của Chính phủ với quyết tâm hỗ trợ cộng
đồng doanh nghiệp, hỗ trợ người dân thoát khỏi suy thoái.
Năm 2010: Việt Nam trong năm 2009 đã liên tục tăng trưởng GDP dương. Kinh tế


Đặt trong tương quan với việc Việt Nam tụt hạng về năng lực cạnh tranh theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới, cũng như của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, việc hệ số
ICOR tăng thể hiện rõ xu hướng đi xuống của nền kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu diễn ra đúng theo lộ trình đã định
Xét theo các ngành kinh tế, trong xu hướng tăng trưởng nhanh thì ngành công
nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cả, và tiếp đó là ngành dịch vụ. Tuy
nhiên xu hướng vào những năm cuối của giai đoạn này thì ngành dịch vụ lại đang có xu
hướng tăng ngang bằng hoặc nhanh hơn ngành công nghiệp. Như vậy, tốc độ tăng trưởng
của các ngành rất phù hợp với tiêu chí: giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trong
ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng theo ngành
(Đơn vị: %)
Ngành

2006

2007

2008

2009

2010 Toàn nền kinh
tế
8,17 8,5 6,23 5,32 6,78
Nông nghiệp 3,69 3,4 4,07 1,83 2,78

ngoài nước. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Hàm lượng khoa học và đổi mới công nghệ trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp ở
mức rất hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp. Chưa kết hợp thật nhuần nhuyễn
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên và môi
trường. Tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài nguyên
thô, hoặc công nghiệp gia công với tỷ lệ giá trị gia tăng thấp.
402.1
412.9
440
491.9
552.9
639.1
725.1
835.9
1028.3
1064
1170
0
200
400
600
800
1000
1200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
USD
Nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro gây lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô.
Tình hình nợ xấu chậm được xử lý nên việc tiếp cận vốn tín dụng vẫn gặp nhiều khó
khăn. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra và
chênh lệch lớn so với tốc độ tăng huy động vốn; lãi suất cho vay tuy có giảm nhưng vẫn

(i) Thất thoát sử dụng nguồn tài chính quốc gia – đây là nguyên nhân đáng quan
ngại, khu vực doanh nghiệp nhà nước sử dụng nguồn lực kém hiệu quả. Việc
hiện thực hoá kế hoạch phát triển của Việt Nam là rất kém, tổ chức triển khai
trong thực tế còn nhiều hạn chế, tính triệt để trong cải cách nhất là trong khu
vực nhà nước diễn ra chậm;
(ii) Động lực phát triển chưa đủ mạnh bố trí và phân bổ nguồn lực chưa hợp lý thể
hiện ở cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước,
định hướng xuất khẩu hạn chế ở các ngành các khu vực không có lợi thế dẫn
đến bảo hộ tràn lan kém hiệu quả. Hệ thống đòn bẩy kinh tế tài chính của Việt
Nam thiếu tập trung. Sự bất cập thể chế kinh tế dẫn đến sức bật của nền kinh tế
kém kìm hãm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Đánh giá một cách tổng thể:
Trong thời gian qua, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia
được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Những thành quả đạt được về kinh tế đã tạo nguồn
lực cho việc giải quyết thành công hàng loạt các vấn đề xã hội: xoá đói giảm nghèo, phát
triển giáo dục, chăm sóc sức khỏe, hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
nhằm nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống người dân. Tổng kết 10 năm thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 cho thấy, Việt Nam đã tranh thủ thời
cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của
hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu
to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược
2001 - 2010 được thực hiện; đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và hội nhập quốc tế Các hoạt động phát triển KT - XH trong thời gian qua đã
bước đầu gắn kết với BVMT về các mặt thể chế, chính sách, tổ chức - quản lý, xã hội hoá
và hợp tác quốc tế.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát
triển chưa bền vững. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ

hóa các kênh dẫn vốn của nền kinh tế như Thị trường chứng khoán, Trung gian tài chính.
Thúc đẩy tiết kiệm, phát triển nguồn huy động từ dân cư, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối
với nguồn vốn FDI, nhà nước cần xây dựng chiến lược và quy hoạch thu hút FDI, trong
đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích thu hút. Cải thiện môi
trường đầu tư cũng như hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước
ngoài một cách thông thoáng, rõ ràng ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các
nước trong khu vực.
2. Nâng cao hiệu quả đầu tư
2.1 Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước
Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất thoát nguồn vốn của nhà nước, cần có
những giải pháp như tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về đầu tư, cụ thể
như cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung các cơ chế, chính sách. Đầu tư xây dựng cơ bản,
đầu tư tập trung, theo mục tiêu, theo quy hoạch và hiệu quả. Khắc phục tình trạng tiêu
cực lãng phí, thất thoát trong đầu tư. Rà soát lại tổng thể các dự án đầu tư công, đánh giá
việc cắt giảm, dừng thi công các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để có điều chỉnh hợp lý, hạn
chế gây ra sự mất cân đối trong việc thực hiện đồng bộ qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của một số địa phương. Ngoài những dự án buộc phải thực hiện cắt giảm theo chủ trương
của Chính phủ, cần yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục chủ động rà soát để giảm
việc đầu tư từ vốn nhà nước vào các dự án chưa thực sự cần thiết hoặc tính toán lại qui
mô đầu tư để bảo đảm nguồn vốn nhà nước được sử dụng một cách hiệu quả. thận trọng
trong việc điều chỉnh chính sách thu NSNN, tránh giảm thu quá lớn; đồng thời cần đánh
giá lại cơ cấu thu NSNN. Triệt để tiết kiệm, không ban hành chính sách, chế độ mới làm
tăng chi ngân sách. Cắt giảm mua sắm công, quyết tâm tinh giản biên chế, giảm gánh
nặng cho NSNN. Xây dựng chế tài mạnh mẽ, gắn trách nhiệm của người quyết định đầu
tư đối với chi đầu tư phát triển; bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn để phát huy hiệu quả của dự
án đầu tư sau khi rà soát; đẩy nhanh hơn nữa tốc độ giải ngân vốn đầu tư phát triển nhằm
hỗ trợ tổng cầu của nền kinh tế. Rà soát, xử lý các khoản nợ đọng, đặc biệt là nợ doanh
nghiệp trong xây dựng cơ bản; hạn chế tối đa việc ứng vốn đầu tư, các công trình, dự án
vốn không hoàn trả trong năm phải được Ủy ban thường vụ QH xem xét, quyết định.
Kiểm soát chặt chẽ chi dự phòng và các khoản chuyển nguồn.

Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và
giảm đói nghèo. Vì vậy, trong những năm tới, Nhà nước cần có những giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo. Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả
tái đào tạo nghề, xác định rõ các lĩnh vực ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu
người lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề để tăng cường đầu tư, hỗ trợ. Tiêu
chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng
được quy định rõ ràng. Tăng đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó
đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng lên, đồng thời huy động nhiều hơn, tốt hơn sức
dân thông qua đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục.
2.6 Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
thúc đẩy xuất khẩu
2.6.1 Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong bất kỳ quốc gia nào, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được quyết định bởi
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Cần thay đổi nhận thức về
cạnh tranh và điều chỉnh pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp
tư nhân tăng trưởng về chất lượng như cải cách hệ thống tính và thu thuế, tạo cơ hội cho
các doanh nghiệp tư nhân được cạnh tranh bình đẳng trong các lĩnh vực kinh doanh cho
đến nay vẫn dành riêng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, như viễn thông, cơ cở hạ
tầng, dầu khí Cải cách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện các thủ tục
về giải thể và phá sản, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Giảm chi phí đầu vào cho doanh
nghiệp để tăng sức cạnh tranh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.
2.6.2 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ tr.nh hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế ở các cấp độ: toàn
cầu, khu vực và song phương, vừa đẩy nhanh hợp tác đa phương, phát triển mạnh quan
hệ song phương với các đối tác có vị thế quan trọng và lâu dài. Sửa đổi và xây dựng mới
các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập, tăng nhanh năng lực cạnh tranh
quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, giảm dần theo lộ trình việc bảo hộ bằng
thuế nhập khẩu, xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ phi thuế phù hợp với thông lệ
và cam kết quốc tế.

thiếu thống nhất giữa quy hoạch chung của cả nước, quy hoạch vùng và quy hoạch của
tỉnh.
2.9.2 Cải cách hành chính và cải thiện môi trường thể chế.
Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội để nâng cao chất lượng của các
luật, pháp lệnh, hoàn thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu quốc hội chuyên
trách, tổ chức chặt chẽ và hiệu quả công tác giám sát tối cao, nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan của Quốc hội, kiện toàn tổ chức hôi đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân ba cấp
Tiến hành đồng bộ cải cách hành chính nhà nước, trọng tâm là điều chỉnh để làm rỡ
và thực hiện đúng chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đi sâu cải cách thể chế, đơn giản hoá
các thủ tục hành chính và thực hiện tốt cơ chế "một cửa", đẩy mạnh việc phân cấp quản l.
để nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, xoá
bỏ bao cấp, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính nhà nước. KẾT LUẬN
Không thể nói là Việt Nam không đạt được các mục tiêu tăng trưởng đề ra. Nhưng, trong giai
đoạn 2001-2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chỉ đạt 7,25%, thấp hơn so với mức 7,57%
giai đoạn 1991-2000. Tính trung bình cả giai đoạn 1991-2010, mức tăng trưởng kinh tế thế giới
đạt gần 7,4%/năm. Rõ ràng mức tăng trưởng mà Việt Nam đạt được trong hơn 20 năm qua là
thuộc loại cao so với các nước trên thế giới. Giả sử chỉ chạy theo mục tiêu quy mô và tốc độ tăng
trưởng, rõ ràng Việt Nam đã thành công khi giữ được phong độ trong một thời gian rất dài. Điều
này càng ý nghĩa hơn nếu nhìn vào nền tảng phát triển của một đất nước nghèo, lạc hậu sau chiến


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status