Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ - Pdf 10

✯ ✯ 1 1

 
Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên của DN, doDN tổ chức thực hiện
nhằm đảm bảo độ tin cậy của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC của
DN, phục vụ chủ yếu cho DN; nó là một công cụ quản lý hữu hiệu, giúp phát hiện và
cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của DN. Thông qua công cụ này, ban
lãnh đạo DN có thể kiểm soát hoạt động, quản lý rủi ro tốt hơn và tăng khả năng đạt
được các mục tiêu kinh doanh của DN.
Tại các nước phát triển, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ khá lâu và ngày càng
khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình trong DN.Tuy nhiên, cụm từ
“Kiểm toán nội bộ” mới được đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong khoảng 10 năm nay
và đến nay khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn còn khá xa lạ với nhiều nhà quản lý, nó
vẫn chưa được các DN Việt Nam chú trọng đúng mức, chưa hiểu hết ý nghĩa thực
tiễn, chưa được đưa vào sử dụng có hiệu quả trong các DN Việt Nam.
Hiện nay, Việt Namđã và đang hội nhập vào khu vực và thế giới, là thành viên
của các tổ chức quốc tế như AFTA, ASEAN, APEC… và mới chính thức gia nhập
WTO, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt, các DNluôn phải đứng trước các cơ hội và thách thức. Để tận dụng các cơ hội và
đối phó với các khó khăn đòi hỏi bản thân mỗi DN phải nỗ lực khẳng định vị trí của
mình, không chỉ bằng các chiêu thức giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ… mà còn
cần thiết phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hữu hiệu. Điều này cho
thấy sự cần thiết của KTNB ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Để hoạt động có hiệu quả
hơn các DN Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa đến việc thiết lập và đưa vào hoạt
động bộ phận KTNB.
Đối với TCT Khoáng sản – TKV cũng vậy, là một thành viên của Tập đoàn
Công nghiệp Than -Khoáng sản Việt Nam, quản lý nhiều công ty con với các loại
hình đa dạng: Công ty phụ thuộc, công ty CP, công ty TNHH một thành viên … phân
bố rộng khắp trên cả nước, TCT cũng đã nhận thấy sự cần thiết của KTNBtrong công
tác quản lý và đã thành lập bộ phận KTNB. Tuy nhiên bộ phận KTNBcủa TCT mới
✯ ✯ 1 1

✯ ✯ 1 1
9:;
<;5=5> ;&?@ A BCDEFBF
GD;HDI;BJ1
1.1 K"LML*6*".N/!OPOQ"H
 !/N/!OPO
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm toán khi được phân chia theo tiêu chí
bộ máy tổ chức. Có nhiều khái niệm khác nhau về KTNB.
Theo “Chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán nội bộ” của Hoa Kỳ đã được Viện
kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ thông qua tháng 6 năm 1978 thì: “Kiểm toán nội bộ là một
chức năng xác minh độc lập được thiết lập trong một tổ chức để xem xét và đánh giá
các hoạt động của tổ chức, được coi là một dịch vụ đối với tổ chức đó. Mục tiêu của
kiểm toán nội bộ là giúp các thành viên của tổ chức thực thi có hiệu quả trách nhiệm
của mình. Nhằm mục tiêu này, kiểm toán nội bộ cung cấp cho các thành viên những
công việc phân tích, xác minh, kiến nghị, ý kiến tư vấn và thông tin thuộc về các hoạt
động đã được thẩm tra”.
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế IFAC: “ Kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong một đơn vị kế toán như là một loại dịch vụ cho đơn vị đó,
có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống
kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Theo định nghĩa của Hiệp hội KTV nội bộ (IIA): “KTNB là một hoạt động
đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá
trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. KTNB giúp cho tổ chức hoàn thành
mục tiêu trong việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá
và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro kiểm soát và giám sát”
Như vậy có thể nói Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá
một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát của DN; đánh giá
độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy trình đã được
thiết lập trong DN, thông qua đó đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo

thể đánh giá được tình hình thực tế của DN.
✯ ✯ 1 1
- Kiểm tra sự tuân thủ các chính sách, chế độ, các quy định, kế hoạch và thủ
tục hiện hành. KTNB kiểm tra toàn bộ các khâu, các bước trong quá trình hoạt động,
kinh doanh của DN để đánh giá mức độ tuân thủ đối với các quy chế, thủ tục, chính
sách và quy định của Nhà nước mà DN cần tuân theo. KTNB có thể đánh giá và tham
mưu cho lãnh đạo DN về tính hợp lý và sự ưu việt của các quy chế và thủ tục kiểm
soát của các chính sách, các kế hoạch hoạt động góp phần tăng cường tính hiệu lực,
hiệu quả trong các quyết định của lãnh đạo DN đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DN.
- Kiểm tra các phương thức đảm bảo an toàn cho tài sản của DN. Để đảm bảo
an toàn cho tài sản của DN, KTNB cần kiểm tra sự hiện diện của các tài sản đó qua
việc kiểm kê tài sản thực tế, kiểm tra hệ thống quản lý công nợ, hệ thống kho bãi, hệ
thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống lưu trữ, bảo quản thông tin (thông tin về tài
chính, thống kê, thông tin về chiến lược, kế hoạch SXKD …) Thông qua việc kiểm
tra, KTNB giúp cho lãnh đạo DN hoàn thiện các quy chế kiểm soát, kịp thời có các
giải pháp thực tế để đảm bảo an toàn cho tài sản của DN.
- Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.
Thông qua việc kiểm tra các bộ phạn trong DN, KTNB đánh giá việc thực hiện các
nhiệm vụ giao cho các bộ phận, cá nhân có phù hợp và được hoàn thành đúng kế
hoạch, mục tiêu đề ra hay không. Đồng thời kiểm tra xem các nguồn lực có được sử
dụng có hiệu quả hay không. Từ đó KTNB đưa ra những ý kiến tham mưu cho ban
lãnh đạo DN có những điều chỉnh và quyết định kịp thời, chính xác.
Như vậy, có thể thấy KTNB có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý
của DN: KTNB giúp DN sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực
trong quản lý và điều hành; góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và các nguồn
lực trong DN; nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lý; chống tham ô lãng phí và góp
phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của DN.
S +,-"N/!OPO
Hoạt động KTNB nhằm mục đích xác minh và bày tỏ ý kiến về tình hình tài

đổi thì sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản tăng
lên, khả năng có sự cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kế
toán. Điều này đòi hỏi phải đặt thực trạng tài sản vào đối tượng của kiểm toan. Do tài
✯ ✯ 1 1
sản của DN thường xuyên vận động, quá trình vận động này được cấu thành bởi các
nghiệp vụ cụ thể nên khi tiến hành kiểm toán thì kiểm toán các phần hành cơ bản sau:
các nghiệp vụ về tiền mặt (thu, chi, tồn quỹ); về thanh toán (các khoản vay, nợ, phải
thu, phải trả); về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm); về hàng hoá (bảo quản,
sử dụng); về kinh doanh (mua, bán, sản xuất); về tài chính (tạo vốn, phân phối lợi
nhuận)… Tuỳ theo điều kiện và nhu cầu cụ thể mà KTV nội bộ có thể lược bỏ, tách
riêng hay sáp nhập các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có được những phần hành kiểm
toán phù hợp.
- Hiệu quả và hiệu năng: Theo quan điểm truyền thống, toàn bộ đối tượng của
kiểm toán là tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính. Nhưng theo
quan điểm hiện đại, đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu quả và hiệu năng. Đây
là đối tượng mới của kiểm toán, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong
điều kiện quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng mà nguồn lực ngày càng giới hạn,
cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tiết kiệm chi phí, thắng thế trong cạnh tranh… vấn
đề hiệu quả, hiệu năng đã được đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong
DN.
Tóm lại, đối tượng chung kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng là thực trạng
hoạt động tài chính và hiệu quả thực hiện các hoạt động, chương trình hay dự án
trong DN. Có thể phân chia đối tượng đó thành các đối tượng cụ thể khác nhau như:
tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả, hiệu năng của các
nghiệp vụ, chương trình, dự án để đạt mục tiêu kiểm toán.
0 1TL
1.1.4.1 Phân loại KTNB theo đối tượng cụ thể
Phân theo đối tượng cụ thể, kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng được phân
thành: kiểm toán BCTC, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
Kiểm toán BCTC: Kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện là việc kiểm tra, xác

những tường trình về hiệu quả đã đạt được để cố vấn cho công tác quản lý của DN.
Kiểm toán liên kết: Kiểm toán liên kết là sự sáp nhập hai loại kiểm toán tài
chính và kiểm toán nghiệp vụ nhằm xác minh tính trung thực của các thông tin tài
chính cùng với xác định mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng của
✯ ✯ 1 1
hệ thống kiểm soát nội bộ, đồng thời hướng vào những thành tích và hiệu quả trong
đó xem xét việc thiết lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều hành
hướng tới tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, hình thức kiểm toán liên
kết thường được ứng dụng tại các đơn vị công cộng hơn là tại các DN hoạt động
SXKD. Trong DN hoạt động SXKD, KTNB thường thực hiện hai loại hình kiểm toán
là kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ.
1.1.4.2 Phân loại KTNB theo phạm vi kiểm toán
Theo phạm vi kiểm toán thì KTNB có kiểm toán toàn diện và kiểm toán
chuyên đề.
Kiểm toán toàn diện là hoạt động kiểm toán nhằm vào toàn bộ hoạt động kế
toán tài chính, SXKD… của DN với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số
liệu kế toán, sự phù hợp của các biểu mẫu trong BCTC đồng thời tìm hiểu tình hình
hoạt động, tình hình quản lý kinh doanh của DN.
Kiểm toán chuyên đề là hoạt động kiểm toán chỉ tập trung vào một số nghiệp
vụ nhất định như: kiểm toán doanh thu, kiểm toán chi phí, lợi nhuận…
1.1.4.3 Phân loại KTNB theo chu kỳ kiểm toán
Theo tính chu kỳ của kiểm toán thì KTNB được chia thành kiểm toán thường
xuyên, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
Kiểm toán thường xuyên là việc thực hiện thẩm tra, theo dõi soát xét liên tục
các hoạt động kế toán, hoạt động quản lý, kinh doanh một cách thường xuyên để đảm
bảo phát hiện nhanh chóng, kịp thời các sai phạm, từ đó có các biện pháp ngăn chặn,
phòng ngừa hữu hiệu.
Kiểm toán định kỳ là việc thực hiện kiểm toán theo một thời gian nhất định
như kiểm toán BCTC hàng tháng, quý hoặc năm, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh
giá về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN.

đối, đối chiếu trực tiếp và đối chiếu lôgic.
- Phương pháp kiểm toán cân đối: là phương pháp dựa trên các cân đối kế
toán và các cân đối khác để kiểm tra các mối quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành
mối quan hệ cân đối đó. Trước hết, KTV nội bộ kiểm tra các cân đối trong kế toán:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
✯ ✯ 1 1
Tổng phát sinh Nợ = Tổng phát sinh Có
Tổng tài sản = Nguồn vốn chủ sở hữu + Tổng Nợ phải trả
Khi các mối quan hệ cân đối trên không được đảm bảo, KTV nội bộ tiến hành
các soát xét, thử nghiệm, các thủ tục cần thiết để xác minh, tìm nguyên do sự mất cân
bằng đó.
Để xác minh sự mất cân bằng đó, trước hết KTV nội bộ cần phải xem xét lại
bản chất riêng của mối liên hệ. Trong một số trường hợp, do bản thân các quy định,
chế độ về kinh tế nói chung, kế toán nói riêng làm cho quan hệ này không cân bằng
về lượng. Thông thường trong tổ chức quản lý có các đơn vị kế toán cơ sở có liên hệ
dọc theo ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc ngành chuyên sâu quá chặt chẽ về tài chính;
các đơn vị kế toán được phân cấp tài chính không đầy đủ; các đơn vị độc lập trong
một ngành độc quyền mà không có quy định cụ thể về kỹ thuật kế toán tài chính thì
Bảng cân đối tài sản có thể không duy trì được cân bằng về lượng. Trong một số
trường hợp khác, sự mất cân bằng xảy ra do lỗi về xử lý tài chính trong các đơn vị
khó phân định trong việc xử lý các mối liên hệ tài chính, không xử lý triệt để về tài
chính trong các trường hợp tài sản, vật tư có thất thoát hoặc thừa ra trong kiểm kê,
trong kinh doanh… Hoặc sự mất cân đối này chỉ đơn giản là do lỗi của kế toán (do
làm tắt, không xử lý đúng những quan hệ kinh tế mới phát sinh, sai sót khi ghi sổ,
khoá sổ, lập báo cáo quyết toán …)
Dù mối quan hệ cân đối tổng quát có tồn tại hay không, kiểm toán các cân đối
cụ thể vẫn phải đặt ra. Trong cân đối cụ thể, phải dựa vào cân đối giữa số ghi Nợ với
số ghi Có; giữa số đầu kỳ và số tăng kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế
toán kép. Những mối quan hệ này rất nhiều, KTV thường phải chọn mẫu ngẫu nhiên
hoặc mẫu điển hình để kiểm toán, từ đó suy rộng ra cho quần thể mẫu và đưa ra kết

thập được đầy đủ lượng thông tin cần thiết, đáng tin cậy về nội dung kiểm toán trong
các chứng từ, sổ sách, dữ liệu do hệ thống kế toán cung cấp. Phương pháp này bao
gồm: kiểm kê, thực nghiệm và điều tra.
Phương pháp kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Đây là phương
pháp đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Để đảm bảo sự tồn
✯ ✯ 1 1
tại của tài sản được phản ánh đầy đủ, chính xác trên sổ sách, công tác kiểm kê phải
được thực hiện theo đúng quy trình chung từ khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc
kiểm kê.
- Chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô và thời hạn kiểm kê để
bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác.
- Thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ vào phiếu
kiểm kê theo từng mã cân hoặc lô hàng … Các phiếu kiểm kê này sẽ trở thành chứng
từ kiểm toán.
- Kết thúc kiểm kê cần có biên bản nêu rõ chênh lệch, nguyên nhân và xử lý
cụ thể. Biên bản được đính kèm với phiếu kiểm kê, bảng kê chênh lệch và kết quả
kiểm kê.
Phương pháp điều tra: là phương pháp dùng các cách khác nhau để tiếp cận
và đánh giá đối tượng kiểm toán. Phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi trong
kiểm toán: thu thập thông tin, tìm hiểu về đối tượng kiểm toán, tiếp cận với các bên
liên quan, dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm và tích luỹ dự liệu, loại dần và thu gọn đối
tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán; xác minh bằng văn bản qua thư xác
nhận của các bên có liên quan; chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm
toán, xác minh làm rõ các vấn đề cần kiểm toán. Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán,
điều tra cần được kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết,
phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hay chọn điển hình …
và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan.
Phương pháp thực nghiệm: là việc tái diễn các hoạt động, nghiệp vụ để xác
minh lại kết quả của một quá trình, một sự việc đã qua. Phương pháp này sử dụng các
thủ pháp kỹ thuật nghiệp vụ để tiến hành các phép thử để nghiên cứu, phân tích từng

lượng KTV nội bộ để công việc KTNB tiến hành có hiệu quả, đúng thời hạn. Lập kế
hoạch KTNB gồm các bước sau: Lập kế hoạch KTNB năm, thu thập thông tin về bộ
phận được KTNB, lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB và thiết kế chương
trình KTNB.
Bước 1: Lập kế hoạch KTNB năm
Kế hoạch KTNB năm bao gồm các định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của các cuộc KTNB trong năm. Bản kế hoạch này được
✯ ✯ 1 1
lập trên cơ sở đánh giá các thông tin tổng quát về tình hình hoạt động và môi trường
kinh doanh của các bộ phận, các nghiệp vụ trong DN. Bộ phận hay nghiệp vụ nào có
mức độ rủi ro cao hơn sẽ được đưa vào lịch KTNB năm. Bản kế hoạch KTNB năm
giúp KTV nội bộ dự tínhvà tổng hợp được khối lượng công việc cần thực hiện, thời
gian hoàn thành và nhân lực cần thiết đối với các cuộc KTNB trong năm, nó là cơ sở
để lập kế hạoch KTNB chi tiết, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và soát xét kết quả các
cuộc KTNB trong năm. Kế hoạch KTNB năm do người phụ trách bộ phận KTNB lập
và trình ban lãnh đạo DN duyệt. Để lập kế hoạch KTNB năm cần phải: - Xác
định mục tiêu KTNB: là xác định những vấn đề cần đạt được sau khi công việc
KTNB trong năm hoàn thành. Mục tiêu này được xác định trên cơ sở yêu cầu của
lãnh đạo DN.
- Xác định nội dung KTNB của năm: là các công việc lớn mà KTNB cần phải
thực hiện theo từng loại hình KTNB của năm.
- Xác định phạm vi KTNB của năm: là giới hạn công việc phải thực hiện theo
trọng tâm của từng nội dung KTNB như xác định số lượng các đơn vị thành viên, các
bộ phận, nghiệp vụ cần phải KTNB, xác định thời kỳ KTNB đối với từng đối tưọng.
- Xác định nhân sự thực hiện KTNB: là xác định số lượng và cơ cấu KTV nội
bộ tham gia thực hiện cuộc KTNB theo nguyên tắc độc lập, khách quan, phù hợp với
sở trường và năng lực của KTV nội bộ.
- Chuẩn bị điều kiện vật chất cơ bản phục vụ công tác KTNB như kinh phí,
các phương tiễn hỗ trợ công tác KTNB, giấy tờ liên hệ công tác, tài liệu làm căn cứ
pháp lý cho cuộc KTNB…

- Xác định nội dung và phương hướng áp dụng các phương pháp kỹ thuật của
KTNB.
- Kế hoạch thời gian của cuộc KTNB: thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc,
thời gian tổng hợp, lập và phát hành báo cáo KTNB.
- Xác định nhân sự: dự kiến nguồn nhân lực, xem xét vấn đề thuê chuyên gia...
cần huy động cho cuộc KTNB.
- Kế hoạch kinh phí và các điều kiện vật chất khác phục vụ cho cuộc KTNB.
Bước 4: Thiết kế chương trình KTNB
✯ ✯ 1 1
Chương trình KTNB là toàn bộ những chỉ dẫn cho KTV nội bộ tham gia vào
công việc KTNB về mục tiêu KTNB, nội dung KTNB, lịch trình và phạm vi các thủ
tục KTNB cụ thể, thời gian thực hiện ước tính cho từng phần hành KTNB. Chương
trình KTNB do người phụ trách đoàn KTNB lập trên cơ sở kế hoạch năm và trình
người phụ trách KTNB duyệt. Thiết kế được chương trình KTNB thích hợp sẽ giúp
KTV nội bộ thu thập được đầy đủ bằng chứng với thời gian và chi phí hợp lý. Nội
dung chương trình KTNB bao gồm: - Thông tin chi tiết về đối tượng KTNB cụ thể
- Xác định các tài liệu cần thiết phải thu thập phục vụ cho cuộc KTNB
- Xác định mục tiêu và hướng kiểm toán từng phần hành cụ thể.
- Xác định nội dung, thời gian thực hiện các thủ tục chi tiết đối với công việc
kiểm toán từng phần hành.
- Phân công KTV nội bộ thực hiện các thủ tục phân tíchvà dự kiến thời gian
hoàn thành.
1.2.1.2 Thực hành KTNB
Thực hành KTNB là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã được ấn
định trong trong kế hoạch, chương trình KTNB. Trong giai đoạn này, các KTV nội
bộ áp dụng các phương pháp kiểm toán để thu thập, đánh giá các bằng chứng KTNB
theo kế hoạch và chương trình đã lập. Khi thực hành KTNB, các KTV nội bộ cần
phải thực hiện các nguyên tắc cơ bản sau:
- Tuyệt đối tuân thủ chương trình KTNB đã được xây dựng, trong mọi trường
hợp, KTV nội bộ không được tự ý thay đổi chương trình.

việc trong nhóm, trao đổi và thống nhất nội dung với lãnh đạo của bộ phận được
KTNB, sau đó mới lập báo cáo KTNB chính thức. Một báo cáo KTNB thường bao
gồm nội dung sau: Tiêu đề báo cáo, nơi gửi, đối tượng KTNB, nội dung công việc
KTNB, kết quả KTNB, nhận xét, kiến nghị của KTV nội bộ và ngày giờ lập báo cáo,
chữ ký của người lập báo cáo. Báo cáo KTNB sau khi lập xong được thông qua ban
lãnh đạo DN và các bên liên quan, và được lưu trữ cùng hồ sơ KTNB theo từng cuộc
KTNB.
1.2.1.4 Theo dõi thực hiện kiến nghị sau KTNB
✯ ✯ 1 1
Theo dõi thực hiện kiến nghị sau KTNB là công việc tiếp theo sau khi kết thúc
cuộc KTNB để đảm bảo rằng các kiến nghị được thực hiện sau KTNB. Theo dõi thực
hiện kiến nghị sau KTNB phải được thực hiện dưới hình thức kiểm tra thực tế và
kiểm tra trên báo cáo về tình hình thực hiện kiến nghị KTNB do bộ phận được KTNB
lập. KTV nội bộ cần làm biên bản xem xét, đánh giá tình hình thực hiện kiến nghị
KTNB giữa bộ phận được KTNB và đoàn KTNB. Để theo dõi thực hiện kiến nghị
sau KTNB, có thể thành lập đoàn công tác riêng biệt hoặc sử dụng đoàn KTNB được
phân công KTNB trong năm trực tiếp thực hiện.
Nội dung xem xét tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB bao gồm:
- Đánh giá mức độ thực hiện kiến nghị của bộ phận được KTNB: bộ phận
được KTNB đã thực hiện được bao nhiêu kiến nghị, chưa thực hiện được bao nhiêu
kiến nghị, nguyên nhân chưa thực hiện được là do hệ thống kiểm soát nội bộ ở bộ
phận được KTNB hoạt động chưa hiệu quả dẫn đến bộ phận chưa thực hiện được
ngay các kiến nghị hay do cố tình không thực hiện kiến nghị của KTNB, hay do kiến
nghị của KTNB nêu ra không phù hợp với tình hình thực tế của bộ phận…
- Lập báo cáo tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB: báo cáo này được lập
sau khi kết thúc quá trình thưo dõi tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB, báo cáo
cần nêu rõ tình hình thực hiện và các biện pháp xử lý trường hợp không thực hiện
kiến nghị của KTNB.
1.2.2 PO/!XVN/!OPOQ"H
1.2.2.1 Mô hình tổ chức bộ máy KTNB

lại không đảm bảo được tính khách quan, chính xác.
Mô hình hỗn hợp: Mô hình này thường được tổ chức tại các DN có quy mô
lớn, lĩnh vực hoạt động phức tạp và phân bố rộng. Theo mô hình này, ngoài bộ phận
KTNB tại văn phòng trung tâm thì DN sẽ tổ chức các bộ phận KTNB nhỏ hơn tại các
đơn vị trực thuộc theo ngành dọc. Các bộ phận KTNB tại các đơn vị trực thuộc là
một phần của bộ phận KTNB của văn phòng trung tâm, chịu sự quản lý và điều hành
của bộ phận KTNB văn phòng trung tâm. Mô hình này vừa đảm bảo được sự nhanh
chóng, kịp thời và sâu sát các phát sinh trong các đơn vị vừa đảm bảo tính khách
quan trong các đánh giá, kiến nghị của báo cáo KTNB.
✯ ✯ 1 1
Dù DN tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình nào, DN cũng phải đảm bảo cho
bộ phận KTNB có một vị trí độc lập, hoạt động khách quan, chỉ chịu sự điều hành
của lãnh đạo cao nhất trong DN. Bộ phận KTNB có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch KTNB hàng năm và thực hiện các hoạt động KTNB theo kế
hoạch, các chính sách, quy trình và thủ tục KTNB đã được phê duyệt, đảm bảo chất
lượng và hiệu quả kiểm toán.
- Kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với tất cả các
đơn vị, bộ phận, các hoạt động của DN. Thông báo kịp thời cho lãnh đạo Dn biết
những vấn đề có thể ảnh hưởng xấu tới hoạt động của DN và đưa ra những khuyến
nghị thiết thực nhằm ngăn ngừa, khắc phục những vấn đề này.
- Đánh giá và kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, xử lý
những vi phạm, đề xuất các biện pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ
thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong DN.
- Lập báo cáo kiểm toán nội bộ, thông báo và đệ trình kịp thời các kết quả
kiểm toán nội bộ cho các bên có liên quan theo đúng các chính sách, quy trình, quy
định của DN và pháp luật.
- Đảm bảo chất lượng của công tác KTNB.
- Tuyển dụng, đào tạo và bố trí sử dụng có hiệu quả các KTV nội bộ, phát huy
năng lực và trình độ của các KTV nội bộ phục vụ cho công việc đạt hiệu quả.
Quyền hạn của bộ phận KTNB trong DN:

biện pháp đào tạo, huấn luyện KTV nội bộ, đảm bảo không ngừng nâng cao trình độ
và năng lực công tác của KTV nội bộ và bộ máy KTNB. Đề xuất với lãnh đạo DN về
việc đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với KTV nội bộ.
- Báo cáo lãnh đạo DN khi phát hiện các vấn đề yếu kém, tồn tại, các sai phạm
trong DN, kiến nghị và đề xuất thay đổi về chính sách, đường lối, quy định trong DN
nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành DN.
- Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị sau KTNB, lập và gửi các báo cáo
KTNB cho lãnh đạo DN và các bên hữu quan.
Đối với các KTV nội bộ thì tuỳ theo lĩnh vực, yêu cầu của DN, hoặc theo pháp
luật có những quy định cụ thể khác nhau, nhưng nhìn chung KTV nội bộ phải là
những người có các tiêu chuẩn sau:
✯ ✯ 1 1
- Là người có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn
nhận khách quan.
- Có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về kế toán tài chính, quản trị kinh
doanh.
- Có bằng cấp các chuyên ngành phù hợp, có kiến thức đầy đủ và luôn được
cập nhật về các lĩnh vực được giao thực hiện KTNB.
- Có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin, có kiến thức
và kỹ năng về KTNB. Đồng thời phải đáp ứng được các yêu cầu riêng của DN.
KTV nội bộ do lãnh đạo DN trực tiếp bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị
của trưởng bộ phận KTNB. KTV nội bộ đã bị bãi nhiệm do vi phạm kỷ luật không
được bổ nhiệm lại, KTV nội bộ tuyệt đối không được đảm đương các công việc khác
trong điều hành, quản lý DN. KTV nội bộ có trách nhiệm và quyền hạn sau:
- Thực hiện nhiệm vụ KTNB theo sự phân công của trưởng bộ phận KTNB,
chịu trách nhiệm về chất lượng, tính trung thực và hợp lý của báo cáo kiểm toán nội
bộ trong phần việc mình thực hiện.
- Trong quá trình thực hiện KTNB, KTV nội bộ phải tuân thủ luật pháp, các
nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán, các chính sách, chế độ của Nhà
nước và tuân thủ các thủ tục, quy trình KTNB đã được lập.

mô lớn hình thành thì mới xuất hiện khái niệm đầy đủ về KTNB. Từ khi ra đời,
KTNB đã thể hiện vai trò quan trọng trong công tác quản lý, đối với các DN thì
KTNB được coi như một công cụ quản lý hiệu quả, giúp lãnh đạo DN giám sát được
toàn bộ hoạt động của DN mình; đối với cơ quan Nhà nước thì nó giúp kiểm tra,
kiểm soát hiệu quả hoạt động của các đơn vị công.
Cùng với sự lớn mạnh của các DN, tầm quan trọng của KTNB cũng thể hiện
ngày càng rõ rệt hơn. KTNB ra đời trước tiên ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển như Mỹ, Pháp; bộ phận KTNB được xây dựng đầu tiên tại các ngân hàng,
các công ty đa quốc gia, các tổ chức thuộc thị trường chứng khoán. Tại một số quốc
gia, cơ quan lập pháp đã sớm đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo hành lang
pháp lý để tạo điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển.
✯ ✯ 1 1
Tại Mỹ, năm 1941, Viện kiểm toán nội bộ IIA đã ra đời tại Newyork với 25
thành viên để nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho các KTV nội bộ;
chính phủ Mỹ không can thiệp vào việc xác định bộ máy KTNB của DN và cũng
không bắt buộc đối với các DN, ban lãnh đạo DN dựa vào các chuẩn mực KTNB của
Viện KTNB Mỹ ban hành để thiết lập và vận hành bộ máy KTNB của mình.
Tại Pháp, năm 1960 các chức năng của KTNB đã được định nghĩa khá đầy đủ.
Năm 1965, Pháp thành lập Hội KTV nội bộ, đến năm 1973 trở thành Viện nghiên
cứu của KTV và KTV nội bộ của Pháp; chính phủ Pháp cũng không có bất cứ can
thiệp nào vào việc xây dựng bộ máy KTNB của DN, trong các DN, bộ phận KTNB
chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của lãnh đạo DN.
Tại các nước Châu Á, KTNB ra đời muộn hơn nhiều so với Mỹ và Châu Âu:
nó xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20 và đã phát triển khá nhanh. Ở Việt
Nam, KTNB xuất hiện muộn hơn vào năm 1997, khi các Tổng công ty 90, 91 được
hình thành, nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập KTNB xuất hiện. Hoạt
động KTNB được chính thức triển khai từ tháng 10/1997 trên cơ sở Nghị định 59/CP
ngày 03/10/1996 của Chính phủ và Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày
28/10/1997 của Bộ tài chính ban hành Quy chế KTNB. Đây là những văn bản pháp lý
đầu tiên làm cơ sở cho các DN nhà nước triển khai KTNB, còn các DN tư nhân thì


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status