TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ P2 - Đề tài: "KHÁI NIỆM BẢO HIỂM ? BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC CỦA BẢO HIỂM ? TẠI SAO NÓI BẢO HIỂM LÀ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH ?" - Pdf 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI HỌC VÀ SAU ĐẠI HỌC
*************
TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ P2
ĐỀ TÀI:
KHÁI NIỆM BẢO HIỂM? BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC CỦA BẢO
HIỂM? TẠI SAO NÓI BẢO HIỂM LÀ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH?
Giáo viên hướng dẫn: Võ Thị Thu Hằng
Nhóm sinh viên thực hiện: 11
1. Nguyễn Thị Hương 11030073
2. Lê Thị Hà
3. Lê Thị Hằng
4. Nguyễn Thị Trang
5. Lê Thị Hà

Thanh Hóa, tháng 5 năm 2012.
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam bước sang một thời
kỳ phát triển mới. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành
tựu kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước. Nhiều lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời
sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao. Trong quá trình phát triển đó, bảo
hiểm đã và đang chứng minh được vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản
xuất - kinh doanh nói riêng cũng như với cuộc sống nói chung. Đồng thời, bảo
hiểm cũng đã trở thành một ngành kinh doanh giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất
nhiều lao động.
Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ cách đây khoảng
10 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm được xoá bỏ theo nghị định 100 CP
được Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã
có những bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần
rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ

thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được
bảo hiểm.
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về góc độ
kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao quát,
hoàn chỉnh. Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, dựa trên cơ
sở tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người, nhiều đơn vị cùng
tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thường thiệt hại về tài chính do
tài sản hoặc tính mạng của người được bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro bất ngờ.
Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) định nghĩa: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế
này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công
ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm”.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày 09/12/2000) thì
“kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích
sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa ra
định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người
được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro
đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối
tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”.
2. BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM.
Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro, quĩ
sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân
hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty bảo
hiểm. Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro được
bảo hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường

mình vào hoàn cảnh rủi ro và sẵn sàng chia sẻ tổn thất mất mát mà người khác đang
gánh chịu.
• Xét ở góc độ toàn xã hội
- Cải thiện năng lực và hiệu quả làm việc của toàn xã hội
- Góp phần phát triển kinh tế.
4. ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO HIỂM.
• Bảo hiểm là một loại dịch vụ tài chính đặc biệt
- Doanh thu trước, chi phí sau, do đó luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi để đầu

- Sản phẩm vô hình: là sự đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro, chỉ có cam kết
giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo hiểm
cam kết nộp phí, còn nhà bảo hiểm cam kết bồi thường khi có sự cố bảo hiểm xảy ra
• Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn và không bồi hoàn
Trong thời gian được bảo hiểm nếu không có rủi ro ảnh hưởng đến người mua
bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm không được bồi thường. Ngược lại bên bảo
hiểm sẽ bồi thường trong phạm vi bảo hiểm. Như vậy quan hệ giữa người bảo hiểm,
người được bảo hiểm và người mua bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa mang tính
không bồi hoàn
- Số đông bù số ít
+ chỉ bồi thường cho người gặp rủi ro
+ Thể hiện tính chất: xã hội, nhân đạo và cộng đồng
5. VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM.
• Đảm bảo bảo toàn vốn kinh doanh và ổn định đời sống xã hội
- Khi gặp rủi ro ảnh hưởng rõ nhất là ảnh hưởng về tài chính, sản xuất kinh doanh
bị ngừng trệ, bảo hiểm góp phần bảo toàn vốn để tiếp tục kinh doanh
- Ổn định đời sống xã hội: đảm bảo về mặt tài chính, khắc phục khó khăn, nhất là
trong trường hợp bảo hiểm cho người là lao động chính trong gia đình
• Góp phần phòng tránh, hạn chế tổn thất
- Bảo hiểm sẽ tuyên truyền, lắp đặt thiết bị phòng tránh rủi ro, tổ chức, theo dõi
- Xây dựng bệnh viện, tham gia nghiên cứu đề tài để hạn chế rủi ro, tổn thất

• Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
1. Bảo hiểm tài sản:
- Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu;
- Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô, ;
- Bảo hiểm hỏa hoạn.
2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự;
3. Bảo hiểm con người:
- Bảo hiểm nhân thọ;
- Bảo hiểm phi nhân thọ.
• Căn cứ vào tính chất hoạt động
1. Bảo hiểm tự nguyện;
2. Bảo hiểm bắt buộc.
1.6.1.5. Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm thương mại
• Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm thương mại
- Vốn kinh doanh;
- Doanh thu và thu nhập.
• Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm thương mại
- Ký quỹ;
- Quỹ dự trữ bắt buộc;
- Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm;
- Dự phòng nghiệp vụ;
- Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước;
- Chế độ phân phối lợi nhuận.
1.6.2.Bảo hiểm xã hội
1.6.2.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm
thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ
khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động.
1.6.2.2. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
• Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước

v.v
1.6.3. Bảo hiểm y tế
1.6.3.1 .Khái niệm bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài
lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo
hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được
bảo hiểm khi ốm đau.
1.6.3.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế
- Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn;
- Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám
đốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ.
1.6.3.3 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế
- Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho
cộng đồng;
- Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm
những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra;
- Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
1.6.3.4. Đối tượng của bảo hiểm y tế
Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm
đau, bệnh tật, ).
1.6.3.5. Hình thức của bảo hiểm y tế
- Bảo hiểm y tế bắt buộc;
- Bảo hiểm y tế tự nguyện.
1.6.3.6. Phạm vi của bảo hiểm y tế
- Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do
chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong
xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm;
- Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi
phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;
- Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ

nền kinh tế xã hội và bản thân nó. Vai trò của nó thể hiện thông qua việc nó góp
phần giảm bớt các chi phí phát sinh khi thực hiện đầu tư vốn hoặc huy động vốn
cho mỗi cá nhân và toàn bộ nền kinh tế; đáp ứng đủ và kịp thời yêu cầu giữa người
cần vốn và người có vốn cần đầu tư sinh lãi; thực hiện hiệu quả các dịch vụ tư vấn,
môi giới, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa rủi ro;…
Để có thể thấy được vai trò của các trung gian tài chính, cần tìm hiểu những hạn
chế của các thị trường tài chính trong việc lưu chuyển vốn, qua đó thấy được các
trung gian tài chính đã làm như thế nào để khắc phục những hạn chế đó để trở
thành kênh tài chính quan trọng của nền kinh tế.
Người được bảo hiểm.
Người được bảo hiểm bao gồm mọi công dân Việt Nam từ 16 đến 70 tuổi
và những người trên 70 tuổi đã được bảo hiểm theo nghiệp vụ này ít nhất từ năm 69
tuổi. DNBH không nhận bảo hiểm các đối tượng sau:
- Người bị bệnh thần kinh.
- Người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên.
- Người đang trong thời gian điều trị bệnh tật, tai nạn.
Tuy nhiên việc loại trừ này không áp dụng đối với những người được bảo
hiểm nghiệp vụ này liên tục từ năm thứ hai trở đi. Người được bảo hiểm ở nghiệp
vụ bảo hiểm này vẫn được tham gia và hưởng quyền lợi của các nghiệp vụ bảo
hiểm khác.
DNBH nhận bảo hiểm trường hợp tử vong của người được bảo hiểm trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường cho khoản chi phí cần thiết để sửa
chữa các thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm. Với phần lớn các trường hợp, chi
phí phát sinh là khoản chi phí cho việc thay thế, cho việc sửa chữa hoặc tổn thất
từng phần. Giá trị của từng phần còn sử dụng được và giá trị còn lại của nguyên vật
liệu được bán thanh lý sẽ được đối trừ vào phần thanh toán bồi thường.
Thêm vào đó, chi phí của việc tháo dỡ, vận chuyển và lắp đặt lại cũng được
bảo hiểm. Công ty bảo hiểm cũng có thể bồi thường cho cả chi phí làm thêm cần
thiết, chi phí chuyển phát nhanh, chi phí vận chuyển hàng không, chi phí dọn dẹp

khẩn cấp (do DNBH chỉ định, đã được in trên thẻ bảo hiểm) để thông báo các chủ
tiết về đơn bảo hiểm của mình trước khi phải nằm viện, di chuyển y tế cấp cứu, hồi
hương thi hài. Điểm thường trực này sẽ thông báo cho người được bảo hiểm biết
liệu nơi cung cấp các dịch vụ trên có chấp nhận và có thể thu xếp giải quyết được
hay không. Đây là điều kiện tiên quyết để ràng buộc trách nhiệm của DNBH trong
đơn bảo hiểm này, trừ khi người được bảo hiểm ở nơi xa xôi hẻo lánh không thể
liên hệ trước với điểm thường trực được và nếu trì hoãn có thể sẽ dẫn đến kết quả
người được bảo hiểm bị thiệt mạng hay bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe
sau này. Trong trường hợp đó, người được bảo hiểm sẽ trực tiếp trả toàn bộ những
chi phí phát sinh, và sẽ yêu cầu DNBH hoàn trả sau;
- Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm phải cung cấp cho DNBH mọi
thông tin cần thiết để xác định sự cố xảy ra đối với người được bảo hiểm cũng như
phạm vi trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm.
- Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm sẽ ủy quyền cho DNBH thu thập
các thông tin được coi là cần thiết từ người thứ ba (bác sỹ, nha sỹ, các cơ sở y tế, )
và giải phóng họ khỏi trách nhiệm phải giữ kín các thông tin;
- Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm sẽ bắt buộc phải để bác sỹ do
người bảo hiểm chỉ định tiến hành kiểm tra sức khỏe;
- DNBH sẽ không có trách nhiệm giải quyết bồi thường nếu những điều kiện
nói trên bị vi phạm.
Thông báo ngay cho người bảo hiểm hoặc đại lý của họ đến giám định
Nếu người bảo hiểm không có đại lý địa phương, người được bảo hiểm có thể
yêu cầu một giám định viên có đăng ký tại địa phương giám định. Trừ khi đã có
một thỏa thuận khác, người bảo hiểm có quyền từ chối giải quyết một vụ khiếu nại
không được chứng minh bằng Biên bản giám định (survey report).
Tiến hành mọi biện pháp có thể nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn
thất.
Nếu không tiến hành các biện pháp phòng tránh này, người bảo hiểm sẽ không
chịu trách nhiệm bồi thường cho các mất mát, hư hỏng.
Tự mình hoặc hướng dẫn người bảo hiểm tham gia cứu hộ và bảo vệ

- Thư đòi bồi thường.
Người bị rủi ro.
Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn
về mất mát sẽ xảy ra (uncertainty about the occurrence of a loss). Với khái niệm về
rủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1, thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một
người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có
chuyện mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy
trước. Tuy nhiên, nếu một cascadeur nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người
này có thể chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về
hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế này.
Nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất (probability) hay là khả
năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan (objective probability) - còn gọi là xác
suất tiên nghiệm (a priori probability) được xác định bằng phương pháp diễn dịch
(deduction). Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%.

Tuy nhiên , xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic.
Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người đàn ông lái xe hơi
có gây tai nạn hay không trong năm tới là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác
như độ tuổi, xe cũ hay mới Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng những
trường hợp tai nạn xe hơi trước đây, người ta có thể ước tính xác suất tai nạn theo
lối suy luận quy nạp (inductive reasoning).

Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan (subjective
probability) là ước tính của từng cá nhân đối với khả năng xảy ra mất mát. Ví dụ
như nếu có 1 triệu vé số bán ra chỉ có 1 người trúng thì xác suất khách quan là 1
phần triệu. Mặc dù vậy vẫn có nhiều người mua nhiều vé số vì xác suất chủ quan
của họ cao hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan như tuổi, giới
tính, trình độ học vấn và cả óc mê tín dị đoan Để hiểu thêm về rủi ro cần phân
biệt sự khác nhau giữa hiểm họa (peril) và mối nguy (hazard). Hiểm họa được hiểu
như là nguyên nhân dẫn đến mất mát.

ngay trước khi ký hợp đồng với khách hàng. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm nắm
rõ rủi ro hơn khách hàng nên “phần thắng” bao giờ cũng thuộc về họ. Từ đó chúng
ta rút ra được bài học: trong cuộc sống hay trên thương trường, ai hiểu biết về rủi ro
nhiều hơn sẽ trở thành người chiến thắng.

Trung gian thông qua hoạt động cho vay
bảo hiểm là một là một trong những tổ chức tài chính có nhiệm vụ cung cấp
các hợp đồng bảo hiểm cho các hộ gia đình và doanh nghiệp nhằm giảm bớt rủi ro
ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và cuộc sống của họ. + Tài sản nợ: hợp đồng bảo
hiểm + Tài sản có: tiền được ký quỹ tại ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn, bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu, khoản cho vay.
2.2. BẢO HIỂM LÀ MỘT TÀI CHÍNH TÀI CHỦ
QUÁ TRÌNH TẠO LẬP QUỸ BẢO HIỂM.
PHÍ BẢO HIỂM.
Phí bảo hiểm là khoản tiền bên mua bảo hiểm nộp định kỳ cho doanh nghiệp bảo hiểm để được bảo hiểm
theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ BHXH. Chức
năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động và để thực hiện
chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài
chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số
tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả
ngay ( nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian
nhất định, đôi khi tương đối dài ( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng
thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra
yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá
trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy định “ Quỹ bảo hiểm xã
hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính
phủ ”.
♦ Tính tích luỹ.
Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi già và đó

Nhật bản và Niu Di Lân) và các nước cộng hoà thuộc Liên xô (cũ) đang mở rộng sự bao phủ
hệ thống an toàn xã hội đến toàn bộ dân chúng một cách toàn diện hơn. Trong khi đó, các
nước còn lại chủ yếu tập trung các hệ thống của họ vào khu vực sử dụng lao động một cách
chính quy tại các trung tâm đô thị trong khi làm ngơ một bộ phận đáng kể dân chúng đang
nằm ngoài sự bảo trợ. Nguyên nhân của sự bỏ qua này là do sự khó khăn về mặt hành chính
trong việc thúc đẩy sự mở rộng bắt buộc của họ cũng như không có khả năng về tài chính của
các doanh nghiệp nhỏ để đóng góp vào hệ thống này. Ở Giooc Đan Ni, thậm chí những
trường hợp ban đầu được tham gia hệ thống an toàn xã hội nhưng sau đó lại bị bỏ qua như
trường hợp của các nông dân, ngư dân, người tự lao động ( làm tư). Ở các nước khác, một số
nằm ngoài đã được cho phép tham gia vào chương trình trên cơ sở tự nguyện.
b, Phương thức đóng góp
Đóng góp theo mức cố định:
Đối tượng tham gia đóng một mức cố định không phụ thuộc vào mức thu nhập của họ,
mặc dù vậy vẫn có có thể có những tỷ lệ đóng góp khác nhau ( ví dụ tỷ lệ đóng góp của người
trẻ khác với của người già, của nam khác với nữ ) nhưng trong phạm vi một nhóm người thì
mức đóng góp sẽ như nhau và không gắn với thu nhập của họ và khi đó mức hưởng cũng sẽ
là một khoản được ấn định trước.
Đóng góp gắn với thu nhập:
Theo phương thức này, mức đóng góp sẽ gắn với thu nhập của từng cá nhân và được
ấn định bằng cách sử dụng cách tính phần trăm đơn giản so với thu nhập, khi hưởng trợ cấp
thì mức trợ cấp cũng được căn cứ vào mức thu nhập khi còn làm việc của người lao động.
Phương thức này được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới.
Đóng góp theo nhóm tiền công:
Trong từng nhóm tiền công có các mức tiền công và đối với mỗi mức tiền công sẽ có
một mức đóng góp tương ứng theo mức độ luỹ tiến. Nhóm tiền công cũng có thể được sử
dụng như là một công cụ thúc đẩy việc phân phối lại nguồn quỹ giữa các thành viên.
Đóng góp theo tỷ lệ đặc biệt:
Một số nước dựa vào mức đóng góp theo một tỷ lệ đặc biệt dựa vào sự khác biệt giữa
các công việc của người lao động. Chẳng hạn trong chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, tỷ lệ
đóng góp thay đổi tuỳ theo ngành công nghiệp và mức độ rủi ro của mỗi ngành nghề.

mang tính chất tương đối ).
Khi xác định mức đóng góp BHXH phải đảm bảo nguyên tắc:
- Phải cân bằng Thu - Chi.
- Lấy số đông bù số ít.
- Có dự phòng.
Khoản tiền đóng góp của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH được
gọi là phí BHXH :
Ptp = Ptt + Phc + Pdp
Trong đó: Ptp: phí toàn phần.
Ptt: phí thuần tuý.
Phc: chi phí hành chính.
Pdp: phần an toàn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status