ảnh hưởng của thuốc trừ sâu hoạt chất quinalphos (gốc lân hữu cơ) lên một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa và tăng trưởng của cá rô phi (oreochromis niloticus) - Pdf 11



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
ĐỖ VĂN BƯỚC
ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC TRỪ SÂU
HOẠT CHẤT QUINALPHOS LÊN MỘT SỐ CHỈ TIÊU
SINH LÝ, SINH HÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG CỦA
CÁ RÔ PHI (Oreochromis niloticus) LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGS.TS NGUYỄN THANH PHƯƠNG
2010

i

LỜI CẢM TẠ
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy
PGs.Ts. Nguyễn Thanh Phương đã tận tình quan tâm, hướng dẫn, động viên và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Xin gởi lời cảm ơn chân thành đến cô Ts. Đỗ Thị Thanh Hương đã cho
tôi những lời khuyên, những ý kiến đóng góp quý báu và tạo mọi điều kiện
thuận lợi trong quá trình thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn đến các bạn Nguyễn Thị Kim Hà, Nguyễn Văn
Toàn công tác tại Bộ môn Dinh dưỡng và Chế biến thuỷ sản đã tận tình giúp
đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin gởi lời cảm ơn đến các bạn lớp Cao học K15, các em sinh viên lớp
Nuôi trồng thuỷ sản K34 (Liên thông) và các em sinh viên lớp Nuôi trồng thuỷ
sản K35 (Liên thông) đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn dự án “Nghiên cứu được thực hiện dưới sự tài trợ

90,9% và cơ bị ức chế từ 56,1% đến 86,7%. Hoạt tính ChE trong não và gan ở
thời điểm 96 giờ tiếp xúc với thuốc bị ức chế lần lượt là 85,6% và 90,8%;
trong khi hoạt tính GST ở não và gan tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với đối chứng ở cùng thời điểm thu mẫu. Thí nghiệm tăng trưởng
được thực hiện ở bốn mức nồng độ là 0,08; 0,17; 0,34 và 0,50 mg/L, tăng
trọng trung bình trên ngày (DWG) và tỷ lệ sống của cá giảm theo sự gia tăng
của nồng độ thuốc và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (p<0,05).
Hệ số chuyển hoá thức ăn (FCR) đạt cao nhất ở nồng độ 0,50 mg/L và khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (p<0,05). Kết quả nghiên cứu cho
thấy hoạt chất quinalphos độc đối với cá rô phi và ảnh hưởng đến sự phát triển
của cá khi tiếp xúc với nồng độ thấp.
Từ khoá: Cá rô phi, quinalphos, ức chế, nhạy cảm, tăng trưởng

iii

ABSTRACT

Tilapia (Oreochromis niloticus) is one of popularly cultured species in
rice-fish farming systems. The use of insecticides to control pests in rice is a
popular technique. However, the insecticide use might reach water
environment and cause hazard affect on fish. Insecticide Kinalux 25EC
containing active ingredient called quinalphos is a common type of insectice,
which is used currently. This study was conducted to evaluate the effects of
quinalphos on tilapia at concentrations of sublethal and lethal in order to
determine the levels of toxicity to this fish. Value of LC
50
-96 hours of Kinalux
25EC on tilapia (sizing 10-12 g) was 0.84 mg/L. The activity of enzyme
cholinesterase (ChE) in the brain of fish was inhibited from 80.7% to 90.9%
and muscle inhibited from 56.1% to 86.7% at the stage of mortality. The
Đỗ Văn Bước

v

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
ABSTRACT iii
LỜI CAM ĐOAN iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ix
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Một vài đặc điểm về cá rô phi 3
2.1.1 Đặc điểm hình thái và phân loại 3
2.1.2 Đặc điểm môi trường sống 3
2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng 4
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng 4
2.2 Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới 4
2.3 Sơ lược về nuôi cá rô phi ở Việt Nam 5
2.4 Giới thiệu về thuốc BVTV 5
2.5 Sơ lược về một số thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ 6
2.6 Mức độ ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên một số loài thủy sản ở nồng
độ gây chết (LC
50

3.7 Phương pháp xử lý số liệu 19
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 20
4.1 Giá trị LC
50
–96 giờ của hoạt chất quinalphos đối với cá rô phi 20
4.1.1 Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 20
4.1.2 Kết quả thí nghiệm LC
50
–96 giờ 20
4.2 Ngưỡng ức chế men ChE trong não và cơ gây chết cá 21
4.2.1 Hoạt động của cá trong thời gian thí nghiệm 21
4.2.2 Hoạt tính ChE ở não và cơ của cá bắt đầu chết 22
4.3 Mức độ nhạy cảm của men ChE và GST ở cá khi tiếp xúc với hoạt
chất quinalphos 24
4.3.1 Biến động các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 24
4.3.2 Hoạt tính của men ChE trong não và gan cá 25
4.3.3 Hoạt tính của men GST trong gan và não của cá 28
4.4 Ảnh hưởng của thuốc lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá 30
4.4.1 Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 30
4.4.2 Tỷ lệ sống của cá trong thời gian thí nghiệm 32
4.4.3 Ảnh hưởng của thuốc lên tăng trưởng của cá 33
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 36
5.1 Kết luận 36
5.2 Đề xuất 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
PHỤ LỤC A Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC B Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC C Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC D Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC E Error! Bookmark not defined.

DANH SÁCH HÌNH
trang
Hình 2.1: Sản lượng lượng nuôi cá rô phi trên thế giới 5
Hình 3.1: Hệ thống thí nghiệm LC
50
13
Hình 3.2: Lấy mẫu não cá 15
Hình 3.3: Lấy mẫu cơ cá 15
Hình 4.1: Cá bị sẫm màu (A) và cá bình thường không bị sẫm màu (B) 22
Hình 4.2: Phần trăm hoạt tính men ChE bị ức chế ở não cá 23
Hình 4.3: Phần trăm hoạt tính ChE bị ức chế ở cơ cá 24
Hình 4.4: Phần trăm ChE bị ức chế ở não cá trong thí nghiệm mức độ nhạy cảm 26
Hình 4.5: Phần trăm ChE bị ức chế ở gan cá trong thí nghiệm mức độ nhạy cảm 28
Hình 4.6: Hoạt tính GST ở gan cá 29
Hình 4.7: Hoạt tính GST ở não cá 30
Hình 4.8: Tỷ lệ sống của cá qua thời gian thí nghiệm 32
Hình 4.9: Hệ số chuyển đổi thức ăn của cá 34 ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

AChE Acetylcholinesterase
AChI Acetylthiocholine iodide
BSA Albumine bovine Sigma
BVTV Bảo vệ thực vật
CDNB 1-chloro-2,4-dinitrobenzene
ChE Cholinesterase
Ctv Cộng tác viên

) đến nồng độ dưới ngưỡng gây chết.
Cá rô phi (Oreochromis niloticus) là loài có khả năng thích ứng rộng,
do đó chúng có thể nuôi trong các hệ thống nuôi khác nhau. Ở nước ta cá rô
phi đang được nuôi khá phổ biến, trong đó phần lớn sản lượng cá rô phi được
nuôi ở ao, lồng bè trên sông, hồ chứa vùng nước ngọt (Phạm Anh Tuấn và
ctv., 2008). Hiện tại, cá rô phi cũng là một trong những đối tượng thả ghép
trong các mô hình nuôi cá trên ruộng lúa. Cá rô phi nuôi trong ruộng lúa có
khả năng tiếp xúc với các hoạt chất thuốc BVTV và khi đó cá có thể bị ảnh
hưởng.
Các loại thuốc BVTV trong đó loại thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ
(Organophosphorus) được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp đặc
biệt là trong canh tác lúa. Nhìn chung, thuốc không tồn tại trong thời gian dài
nhưng việc sử dụng lặp lại nhiều lần trong mùa vụ nhất là trong mô hình nuôi
cá kết hợp trồng lúa khi đó cá phải tiếp xúc thường xuyên với hàm lượng
thuốc trừ sâu dưới mức ngưỡng gây chết có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
của cá. Thuốc gây hại cho sinh vật chủ yếu qua tác động lên hệ thần kinh
thông qua ức chế hoạt tính của men cholinesterase (Rao, 2006) và làm thay đổi
hoạt tính của một số men khác như Catalase và Glutathione S-transferase
(Maduenho and Martinez, 2008).
Ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên đối tượng thuỷ sản đã được nghiên
cứu rất nhiều trong thời gian qua. Trong đó, đối với cá rô phi thì ảnh hưởng
của thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ lên sinh lý, sinh hóa và tốc độ tăng trưởng
vẫn còn nhiều khí cạnh cần được nghiên cứu tiếp tục. Vì vậy đề tài: Ảnh
hưởng của thuốc trừ sâu hoạt chất quinalphos (gốc lân hữu cơ) lên một số chỉ
tiêu sinh lý, sinh hóa và tăng trưởng của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
được chọn nghiên cứu.

2

Mục tiêu tổng quát

2.1.1 Đặc điểm hình thái và phân loại
2.1.1.1 Phân loại
Cá rô phi Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758) được phân loại như sau:
Giới: Animalia (giới động vật)
Ngành: Chordata (có dây sống)
Lớp: Actinopterygii (lớp phụ cá vây tia)
Bộ: Perciformes (cá vược)
Họ: Cichlidae
Giống: Oreochromis
Loài: Oreochromis niloticus
Căn cứ vào đặc trưng về tập tính sinh sản và hình thái bên ngoài cá rô
phi được phân loại thành ba giống là Tilapia gồm những loài ấp trứng trên vật
bám (giá thể); giống Sarotherodon gồm các loài ngậm trứng và cá con trong
miệng và giống Oreochromis là loại cá đực làm tổ đẻ, chỉ có cá cái ấp trứng
trong miệng (Phạm Văn Khánh và Lý Thị Thanh Loan, 2004).
2.1.1.2 Đặc điểm hình thái
Cá rô phi (Oreochromis niloticus) có đặc điểm toàn thân phủ vảy, ở
phần lưng có màu xám nhạt và phần bụng có màu trắng ngà hoặc xanh nhạt.
Trên thân có từ 7-9 vạch chạy từ phía lưng xuống bụng. Các vạch đậm dọc
theo vây đuôi ở từ phía lưng xuống bụng (http://www.fistenet.gov.vn). Vây
lưng của cá chạy dài liên tục gồm có 15 đến 18 gai cứng và 11 đến 13 tia
mềm. Vây hậu môn có 3 gai và 10-11 tia mềm (http://www.fishbase.org). Cá
có kích cỡ thương phẩm tương đối lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh. Ðây là loài
được nuôi phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
2.1.2 Đặc điểm môi trường sống
Đa số các loài cá rô phi được nuôi hiện nay điều có các đặc điểm gần
giống nhau, chúng có khả năng chịu đựng và thích ứng với nhiều điều kiện
môi trường khác nhau, có thể sống ở nước ngọt và nước lợ (Đoàn Khắc Độ,
2008). Nhiệt độ thích hợp cho sự tăng trưởng của cá rô phi là 25–32
0

đến tháng nuôi thứ 6 tăng trưởng bình quân của cá có thể đạt 2,8-3,2
g/con/ngày. Cá rô phi có thể đạt trọng lượng bình quân trên 500 g/con sau 5-6
tháng nuôi (http://www.fistenet.gov.vn).
2.2 Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới
Trên thế giới có khoảng 70 loài cá rô phi và có 9 loài được nuôi phổ
biến. Cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) là đối tượng được nuôi phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan, Brazil, Costa Rica,…
Theo FAO (2009) thì Trung Quốc là nước có sản lượng cá rô phi đạt cao nhất
trên thế giới. Năm 2003 sản lượng cá rô phi của Trung Quốc đạt gần 806
nghìn tấn và Ai Cập đạt sản lượng gần 200 nghìn tấn. Trong khi đó các nước
như Philipin, Thái Lan và Indonexia có sản lượng lần lượt là 111 nghìn tấn, 97
nghìn tấn và 72 nghìn tấn. Năm 2002 sản lượng đạt trên 1,5 triệu tấn (Yonas
Fessehaye, 2006). Sản lượng cá rô phi đạt được đã đóng góp đáng kể cho việc
gia tăng sản lượng thủy sản cho thế giới.

5

Tấn (x1.000)
Năm

Hình 2.1: Sản lượng lượng nuôi cá rô phi trên thế giới (FAO, 2009).
2.3 Sơ lược về nuôi cá rô phi ở Việt Nam
Năm 1973 thì cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) được nhập vào
nước ta. So với loài rô phi đen (Oreochromis mossambicus) thì loài này có
nhiều ưu điểm hơn như lớn nhanh, to con hơn nên người nuôi dễ chấp nhận.
Chúng sống được ở cả ao hồ nước ngọt lẫn vùng nước lợ cửa sông. Nhiều
nước trên thế giới đã chọn loài này là loài cá nuôi chủ lực, mang lại hiệu quả
kinh tế khá rõ rệt, nhất là ở các nước Châu Á (http://www.ria1.org).
Sản lượng cá rô phi ở nước ta hàng năm đều tăng, diện tích nuôi được
mở rộng. Năm 2005 thì diện tích nuôi cá rô phi đạt 29.717 ha, sản lượng đạt

bệnh 304 hoạt chất; thuốc trừ cỏ 160 hoạt chất; thuốc trừ chuột 11 hoạt chất;
thuốc điều hòa sinh trưởng 49 hoạt chất; chất dẫn dụ côn trùng 6 hoạt chất;
thuốc trừ ốc 19 hoạt chất; và chất hỗ trợ (chất trải) 5 hoạt chất.
Thời gian phân hủy của thuốc BVTV có thể phân chia thành các loại
sau như loại không bền thời gian phân hủy 1 đến 2 tuần; loại trung bình có
thời gian phân hủy 1 đến 18 tháng; loại bền thời gian phân hủy trên 2 năm
(Đặng Kim Chi, 2005).
2.5 Sơ lược về một số thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ
Thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ (oraganophosphorus) được sử dụng rất
nhiều trong sản xuất nông nghiệp để bảo vệ mùa màng, các sản phẩm nông
nghiệp và các ngành có liên quan mật thiết khác là cây công nghiệp, làm vườn,
lâm nghiệp, chăn nuôi.
Theo Lê Huy Bá (2007) thì lân hữu cơ là những chất có ít nhất 1 nguyên
tử phosphor, các phosphor hữu cơ có hai đặc tính nổi bật, thứ nhất là độc với
động vật có xương sống hơn là gốc chlor hữu cơ, thứ hai là không tồn lưu lâu, ít
hoặc không tích lũy trong mô mỡ động vật. Thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ gây
độc chủ yếu qua ức chế men acetylcholinesterase làm tích lũy quá nhiều
acetylcholine tại vùng synapse làm cho cơ bị giật mạnh và cuối cùng bị tê liệt.
Một số đặc điểm Quinalphos
Quinalphos thuốc gốc lân hữu cơ thuộc nhóm heterocyclic. Có tên hóa
học là: O,O-diethyl O-quinoxalin-2-yl phosphorothioate.
Công thức phân tử là: C
12
H
15
N
2
O
3
PS

hoạt chất methyl parathion có giá trị LC
50
–96 giờ thấp hơn chứng tỏ rằng độ
độc của thuốc cao hơn nhiều so với hoạt chất fensulfothion. Tương tự ở cá
Mystus cavasius giá trị LC
50
–96 giờ sau khi cho tiếp xúc với hoạt chất
fenitrothion là 3,3 mg/L (Murty et al., 1982). Ngoài ra, ảnh hưởng của hoạt
chất thuốc trừ sâu lên cá cũng khác nhau theo kích cỡ, đối với loài cá Labeo
rohita thì LC
50
–96 giờ được nghiên cứu ở các kích cỡ khác nhau khi tiếp súc
với hoạt chất fenitrothion thì có giá trị tương ứng là 3 đến 4,4 cm là 2,8 mg/L;
4,5 đến 5,9 cm là 4,1 mg/L và 6 đến 8 cm là 4,6 mg/L. Tuy nhiên, các giá trị
này khác biệt không có ý nghĩa (Murty et al., 1982). Ở tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) nồng độ gây chết 50% sau 96 giờ khi tiếp xúc
với diazinon là 390 µg/L, nồng độ tương đối thối thấp này chứng tỏ rằng hoạt
chất rất độc với tôm (Ngô Thanh Toàn, 2008).
Ở một số loài cá rô phi các giá trị LC
50
của các loại thuốc trừ sâu cũng
tương đối khác nhau tùy theo từng hoạt chất. Ở cá rô phi đỏ (Oreochromis
spp.) khi thí nghiệm được bố trí ở 6 mức nồng độ diazinon khác nhau, giá trị

8

LC
50
của cá ở 96 giờ được xác định là 3,84 mg/L (Palacio, 2002). Theo
Pathiratne (1999) ngưỡng gây chết 50% cá rô phi (Oreochromis mossambicus)

các synapse của hệ thống thần kinh. Vì vậy, AChE có khả năng quyết định
chức năng của hệ thống thần kinh và dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các thuốc trừ
sâu gốc lân hữu cơ và carbamate kể cả động vật sống dưới nước và động vật
sống trên cạn, sự ức chế của AChE đã được sử dụng như một chất đánh dấu
sinh học. Tuy nhiên, sử dụng sự ức chế AChE làm chất đánh dấu sinh học ở
động vật không xương sống vẫn chưa được nghiên cứu sâu (Fulton and Key,
2001).
2.7.2 Khả năng ức chế men cholinesterase (ChE) của thuốc BVTV
Sự ức chế của men cholinesterase đã được nghiên cứu rất nhiều ở người
và các loài động vật qua việc tiếp xúc với các chất độc, đặc biệt là các loại

9

thuốc BVTV.
Theo Addison (1992) men cholinesterase có thể bị ức chế do liên kết
được với nhiều hóa chất khác bao gồm những loại thuốc trừ sâu gốc lân hữu
cơ và gốc carbamate. Sự ức chế ChE ở cá đã được sử dụng tới việc đánh giá
tác động các loại thuốc trừ sâu trong môi trường nước. Nghiên cứu trên loài cá
Gambusia ajfini tác giả Boone và Janice (1996) cho rằng, ChE ở não và thịt
của cá bị ức chế cao trong suốt 48 giờ khi cá tiếp xúc với các hoạt chất
chlorpyrifos (0,1 ppm), parathion (0,15 ppm) và methyl parathion (8 ppm).
Vùng não của cá bị ức chế cao nhất ở thời điểm 12 giờ sau khi tiếp xúc với
parathion và chlorpyrifos và 4 giờ sau khi tiếp xúc với methyl parathion, tất cả
thuốc điều ức chế ChE hơn 70% ở thời điểm 4 giờ trong thịt. Ở cá rô đồng
giống mức độ nhạy cảm của ChE với hai hoạt chất diazinon và fenobucarb
cũng đã được nghiên cứu, kết quả cho thấy diazinon độc hơn fenobucarb, nồng
độ 0,05 mg/L của diazinon đã ức chế 73% ChE. Tất cả cá chết điều có hoạt
tính của ChE bị ức chế lớn hơn 70% so với mức bình thường (Nguyễn Văn
Công và ctv., 2008a).
2.7.3 Ảnh hưởng của thuốc BVTV lên men Glutathione S-transferase

đến tỉ lệ nở và tỉ lệ dị hình khi tiếp xúc với hoạt chất diazinon nhưng ức chế
khả năng tiêu hoá noãn hoàng của cá sau khi nở. Nồng độ ≥0,6 mg/L, diazinon
đã làm thời gian tiêu hoá noãn hoàng lâu hơn và ức chế hoàn toàn khả năng
tiêu hoá noãn hoàng của cá khi nồng độ ≥19,2 mg/L; nồng độ ≥2,4 mg/L làm
giảm kích cỡ cá sau khi hết noãn hoàng (Nguyễn Văn Công và ctv., 2008b).
Ở cá rô phi (Oreochromis niloticus) khi tiếp xúc với hoạt chất
gammalin và actellic ở cùng các nồng độ thuốc 0,125; 0,25; 0,50 và 1,0 µg/L
thì sau 10 tuần tốc độ tăng trưởng của cá lần lượt là 5,8; 2,4; 1,4 và l,3 g thí
nghiệm với gammalin trong khi đó thí nghiệm với actellic thì 6,5; 3,9; 2,4 và
1,8 g (Ufodike et al., 1991). Những nghiên cứu này cho thấy rằng tốc độ tăng
trưởng ảnh hưởng bởi nồng độ thuốc, tốc độ tăng trưởng của cá giảm khi nồng
độ thuốc tiếp xúc càng cao và ngược lại. Ở cá lóc hoạt chất diazinon đã ức chế
tốc độ sinh trưởng tương đối của cá (Nguyễn Văn Công và ctv., 2006). Ngoài
ra đối với cá mè vinh, cá chép và cá rô phi khi cho tiếp xúc với thuốc Basudin
tỷ lệ sống của cá giảm dần theo sự gia tăng các nồng độ thuốc, sinh trưởng
tương đối của cá trong 10 ngày đầu giảm ở nồng độ LC
50
–96 giờ (Đỗ Thị
Thanh Hương, 1999). Nhìn chung, sự giảm tăng trưởng của cá có thể do nhiều
nguyên nhân gây nên, trong đó có sự ảnh hưởng của thuốc lên khả năng bắt
mồi của cá.

11

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ
từ tháng 2/2010 đến tháng 9/2010.

1
là thể tích dung dịch mẹ cần cho vào bể thí nghiệm
C
2
là nồng độ thuốc cần cho thí nghiệm
V
2
là thể tích dung dịch thuốc trong thí nghiệm
b) Các loại hóa chất dùng trong phân tích men cholinesterase:
Hóa chất dùng nghiền mẫu, phân tích protein và men ChE gồm:
• KH
2
PO
4
, K
2
HPO
4
dùng để pha phosphate buffer pH 7,5.
• Na
2
HPO
4
.2H
2
O, NaH
2
PO
4
.2H

lít. Mỗi bể thả 10 cá với kích cỡ là 10-12 g/con. Thí nghiệm được tiến hành
với 11 nồng độ thuốc gồm 0,6; 0,7; 0,75; 0,8; 0,85; 0,9; 0,95; 1,0; 1,05; 1,1;
1,2 mg/L và 1 nghiệm thức đối chứng (không có thuốc).
Cá chết được ghi nhận vào các thời điểm 3, 6, 9, 12, 24, 48, 72 và 96
giờ và cá chết được bắt ra để hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Thí nghiệm này nhằm xác định được nồng độ thuốc cao nhất gây chết
không quá 10% cá sau 96 giờ và nồng độ thấp nhất gây chết khoảng 90% cá
sau 1-2 giờ. Khoảng nồng độ này là cơ sở cho bố trí thí nghiệm xác định LC
50
.
Bước 2: thí nghiệm xác định giá trị LC
50

Thí nghiệm này được thực hiện dựa vào kết quả của thí nghiệm thăm
dò. Thí nghiệm tiến hành với 11 nồng độ là 0,5; 0,55; 0,6; 0,65; 0,7; 0,75; 0,8;
0,85; 0,9; 1,0; 1,1 mg/L và 1 nghiệm thức đối chứng (không có thuốc). Các
nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại cho mỗi
nghiệm thức. Thí nghiệm được bố trí trong bể kính hình chữ nhật chứa 50 L
dung dịch. Mỗi bể thả 10 cá, cá được thả vào bể 2 ngày trước khi cho thuốc
vào. Trong thời gian thí nghiệm bể không sục khí và không thay nước.

13 Hình 3.1: Hệ thống thí nghiệm LC
50

Theo dõi và ghi nhận số cá chết sau 3, 6, 9, 12, 24, 48, 72 và 96 giờ thí
nghiệm. Khi phát hiện cá chết được bắt ra để hạn chế ảnh hưởng đến kết quả
thí nghiệm. Nhiệt độ, pH, DO được đo hàng ngày vào lúc 8 giờ sáng và 14 giờ

50
–96 giờ); 0,63 mg/L (75%
LC
50
–96 giờ) và nghiệm thức đối chứng (không có thuốc). Thí nghiệm được
bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong bể kính 60 lít (chứa 50 lít dung dịch thuốc)
và mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Mật độ cá thí nghiệm là 25 con/bể. Trong
thời gian thí nghiệm 96 giờ không thay nước, không cho ăn nhưng có sục khí

14

nhẹ để đảm bảo đủ oxy cho cá.
Sau khi đã bố trí thí nghiệm tiến hành theo dõi và thu cá (thu não và
gan cá) ở các thời điểm 3, 6, 9, 12, 24, 48 và 96 giờ. Dùng vợt thu nhẹ mỗi bể
3 cá và giết chết ngay bằng nước đá sau đó lấy não và gan để đo hoạt tính của
ChE và GST.
3.3.4 Xác định ảnh hưởng của quinalphos lên sự tăng trưởng, tỷ lệ sống
của cá
Thí nghiệm bố trí ở bốn mức nồng độ của quinalphos là 0,08 mg/L
(10% LC
50
–96 giờ); 0,17 mg/L (20% LC
50
–96 giờ); 0,34 mg/L (40% LC
50
–96
giờ); 0,50 mg/L (60% LC
50
–96 giờ) và nghiệm thức đối chứng (không có
thuốc). Thí nghiệm được bố trí trong bể nhựa 120 lít với mật độ cá thí nghiệm

eppendoft 1,5 ml, trữ lạnh ở -80
0
C cho đến khi phân tích.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status