Tiểu luận Chính sách tiền tệ của Việt Nam - Pdf 11

Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
1

MỤC LỤC
Trang

Lời nói đầu: ....................................................................................................2

I, Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất :....................................................4
1.Khái niệm : ..................................................................................................4
2.Tình hình lãi suất các ngân hàng :................................................................4
3.Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất :....................................................6
II,Ảnh hưởng và hệ lụy tới các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế: .............9
1.Ngân hàng thương mại bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất:........9
2.Cung tiền Đồng sẽ còn giảm:.......................................................................10
3.Dự báo những tác động của việc lãi suất tiền Đồng tăng cao:.......................12
III,Can thiệp của chinh phủ và ngân hàng Nhà nước:......................................14

Kết luận: ........................................................................................................26

suất thực mà người vay phải trả cao gấp hai lần con số này.
Biến động lãi suất huy động VND đã gây xáo trộn nhất định trên thị trường
ngân hàng.
Đề cập tới chủ đề lãi suất, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam ngày 12/6 có bài
viết: “ Sau những phản ứng đầu tiên của ngày 11/6, ngày kế tiếp, 41 ngân hàng
thương mại trong nước đã có các biểu lãi suất huy động VND mới. Mốc
17%/năm nhanh chóng bị vượt qua, đến 18%/năm và hiện một số thành viên đã
có đỉnh mới tới 18,5%/năm, tiêu biểu như của Ngân hàng Ngoài quốc doanh
(VPBank)...”
Trước những mức lãi suất khác nhau, dòng tiền gửi trên thị trường đã có
những xáo trộn nhất định.
Tuy nhiên sau đó nhiều ngân hàng lại đồng loạt thông báo giảm lãi suất cho
vay và sẵn sàng nguồn vốn tiếp sức cho doanh nghiệp.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
3
Chính bởi sự quan tâm nên chúng em đã lựa chọn đề tài: “ Cuộc chạy đua lãi
suất liệu đã đi đến hồi kết ”. Với chút kiến thức ít ỏi của mình cùng những cố
gắng sưu tầm tài kiệu tham khảo,chúng em xin trình bày một số ý kiến của
mình và hy vọng sẽ nhận được những lời đóng góp và nhận xét của thầy cô để
bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và trân trọng những ý kiến đóng góp
của thầy cô giáo.
4
I, Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất:
1.Khái niệm :
Lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một
khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử
dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối
với việc trì hoãn chi tiêu.

Lãi suất là biến số vĩ mô hết sức quan trọng và được theo dõi chặt chẽ nhất
trong nền kinh tế do nó ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các doanh nghiệp
và hộ gia đình. Những biến động bất thường trong lãi suất sẽ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp và cá nhân trong việc dự tính chi tiêu hay lập kế hoạch kinh
doanh.

2.Tình hình lãi suất các ngân hàng:
Thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt
Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có
người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên
tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số
NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần.

Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất
mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi
suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.

Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)
đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm
cho kỳ hạn 1 tháng.

Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra

Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng,
mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ
trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có
giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước,
một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái
phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn
phần đông các NHTM cổ phần thì không.
Do đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị
trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30% đến
43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì,
các NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy
lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu
cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của
hệ thống NHTM.
Những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8, người ta chứng kiến tình hình nhiều
ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh tăng lãi suất huy động cả
VND và USD.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
6
Các ngân hàng thương mại nhà nước và các công ty tài chính tuy không
tuyên bố tăng lãi suất, nhưng cũng chào mời các loại chứng từ có giá với mức
lãi suất cao hơn mức lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn và khuyến mãi kèm các giải
thưởng.
3.Nguyên nhân của việc tăng lãi suất:
Chúng ta hãy xem xét từ thực tiễn ở Hà Nội và TP HCM (hai địa bàn chiếm
đến 70% tổng vốn huy động và hơn 50% dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân

vốn huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một tổng công ty nhà
nước. Ngân hàng này luôn nơm nớp lo nếu vì lý do nào đó tổng công ty này rút
số tiền trên thì ngay lập tức nguồn vốn huy động của chi nhánh này giảm 1/3 và
hậu quả của nó đối với việc cân đối vốn thì ai cũng rõ.
- Tác động từ việc tăng lãi suất của FED :
Đến ngày 29-6-2006 FED tăng lãi suất cơ bản lên mức 5,25%/năm, đây là
lần tăng thứ 17 trong vòng hai năm qua kể từ tháng 6/2004. Lãi suất của thị
trường tài chính của các nước luôn tác động lẫn nhau. Lãi suất huy động ngoại
tệ trong nước lần lượt tăng theo các lần điều chỉnh của FED. Hiện lãi suất huy
động USD kỳ hạn 12 tháng cao nhất của ngân hàng thương mại đã đến mức
5,1%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất ngoại tệ tăng gây sức ép lên lãi suất nội tệ. Nhiều ngân
hàng lo ngại người dân sẽ chuyển từ gửi nội tệ sang ngoại tệ khiến ngân hàng
thiếu hụt vốn nội tệ nên cũng phải tăng lãi suất nội tệ lên ở mức tương đối có lợi
cho người gửi tiền để duy trì nguồn vốn này.
- Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh:
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân
hàng. Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số
ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không
thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền
sang các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn.
Theo lời của một phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần th ì
cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế- xã hội và dân cư lớn, chi
nhánh đó lỗ vì lãi suất huy động cao, cho vay lại khó khăn, vốn thừa vẫn phải
trả lãi cho tiền gửi. Nhưng tính chung cả hệ thống thì h ọ vẫn phải tăng lãi suất
vì sụt giảm tiền gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà còn
mất khách hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
- Bù đắp cho rủi ro trong hoạt động tín dụng
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong chặng đầu của tiến trình hội nhập, rủi
ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên bản

Nguyên nhân của trở ngại này chính là mục tiêu thắt chặt tiền tệ mà Chính
phủ đã yêu cầu NHNN thực hiện nhằm chống lại lạm phát gia tăng. Lập luận
của NHNN là nếu thực hiện đầy đủ chức năng thì với nhu cầu thanh khoản hiện
tại trong hệ thống ngân hàng Việt nam, NHNN sẽ phải bơm ra một lượng tiền
mặt rất lớn và điều này sẽ làm cung tiền gia tăng làm cho tình hình lạm phát sẽ
tồi tệ hơn. Do vậy NHNN sẽ chỉ cung cấp thanh khoản với lãi suất nằm trong
khoảng 11% đến 13% cho NHTM nào có nguy cơ khủng hoảng thật cao. Còn
các NHTM khác dù có thiếu thanh khoản nhưng chưa đến mức bị khủng hoảng
sẽ phải tự thân vận động bằng cách vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi
suất cao hơn nhiều.
Bởi vậy các NHTM hiện tại, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ không biết
chắc mình có được NHNN ưu ái không nếu tình hình thanh khoản trở nên tồi tệ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
9
hơn, phải chạy đua lãi suất huy động khi cái trần 12% vừa được gỡ bỏ để tránh
phải vay vốn từ thị trường liên ngân hàng mà lãi suất có lúc đã vượt 20%/năm.
Lãi suất huy động sẽ tiếp tục bị đẩy lên cho đến khi nào các NHTM vượt qua
tình trạng thiếu thanh khoản hoặc cho đến khi NHNN can thiệp bằng các biện
pháp hành chính.

II. Ảnh hưởng và hệ lụy tới các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế:

Lãi suất tiền đồng liên tục tăng rất mạnh trong những ngày qua, trong khi đó
lãi suất đồng USD lại giảm mạnh và dự báo còn giảm. Diễn biến trái phiếu trên
thị trường tiền tệ đang khiến các chuyên gia kinh tế đưa ra nhiều dự báo không
mong đợi.
1.NHTM bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất

động vốn hấp dẫn khác, như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng bằng
hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, triển khai hình thức gửi tiền với lãi suất linh hoạt,
khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi suất
có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi,…
Đặc biệt đánh vào tâm lý khách hàng trong điều kiện chỉ số giá tăng cao, từ
ngày 18-2-2008, có ngân hàng còn đưa ra hình thức huy động vốn VND: “Lãi
suất bù lạm phát”. Ngoài lãi suất thông thường, khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12
tháng được ngân hàng này cam kết bù một phần hoặc toàn bộ chênh lệch giữa
lãi suất và tỷ lệ lạm phát thực tế, nhằm đảm bảo cho khách hàng gửi tiền được
hưởng lãi suất không bị thiệt khi lạm phát tăng cao.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cuộc cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn
VND nói trên? Hiển nhiên là do tình trạng thị trường tiền tệ nóng lên, vốn VND
khan hiếm. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà
không có người cho vay.
Chỉ có một số thời điểm nóng nhất Ngân hàng Nhà nước đưa ra đấu thầu
hơn 10.000 tỷ đồng - 17.000 tỷ đồng. Lãi suất cho vay qua đêm một số thời
điểm lên tới 20%/năm, thậm chí tới 30%/năm. Ngày 15-2-2008, trên 10 NHTM
tham gia đấu thầu lãi suất khoản vay kỳ hạn 1-2 tuần từ NHNN với lãi suất
trúng thầu lên tới 30%/năm, tăng cao so với mức 25%/năm ngày trước đó.

2.Cung tiền Đồng sẽ còn giảm:
Trước Tết Nguyên đán Mậu Tý, thời điểm cuối tháng 1-2008, lãi suất thị
trường liên ngân hàng đã lên tới 27%/năm. Một mức lãi suất chính bản thân các
NHTM cũng không ngờ tới và lúc bí quá buộc lòng “bấm bụng“ phải vay vì
không còn cách nào khác! Dự báo trong thời gian tới lãi suất thị trường liên
ngân hàng tiếp tục nóng lên và ở mức cao. Còn nguyên nhân tiếp theo đó là cầu
vốn tiền Đồng Việt Nam tăng cao, trong khi đó cung hạn chế bởi các lý do sau
đây:

Một là Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng

hiện từ tháng 2-2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất
chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi suất trước đó được
thực hiện từ tháng 12-2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm đến nay mới điều
chỉnh tăng trước áp lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức lãi suất đó thực tế
ít tác động đến lãi suất của các NHTM, nhưng về điều hành NHNN phát đi tín
hiệu tăng lãi trên thị trường tiền tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị
trường.

Bốn là, cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các NHTM có sự thay đổi
theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh hơn tiền
gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ bắt buộc
cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua chứng
khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh nghiệp,
vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ liền kề
khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này khách hàng
thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên NHTM phải để tỷ lệ vốn khả dụng
cao hơn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status