Giải pháp đẩy mạnh Cổ phần hóa các CNHH của Thành phố Hà Nội - Pdf 12

Khóa luận tốt nghiệp
Lời mở đầu
Ngày nay, nền kinh tế các nước phát triển nhanh chóng trong điều kiện
hội nhập, sự giao lưu quốc tế đã được mở rộng ở mức cao nhất. Việt Nam
cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, sự mở cửa của nền kinh tế đòi hỏi một
tiềm lực thực sự của đất nước. Tuy nhiên, bước đi hay thay đổi nào cũng phải
đảm bảo không chệch khỏi hướng đi của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, tuy chúng ta đã thực hiện chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thích hợp với yêu cầu đổi mới từ Đại hội
Đảng VI (12/1986) nhưng vẫn phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước. Thực hiện chính sách này, đòi hỏi phải có sự thay đổi một cách sâu sắc
và toàn diện hoạt động của DNNN cho phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu
của quá trình đổi mới DNNN là từng bước phát huy có hiệu quả vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
CPH được xem là một trong những phương thức cơ bản, hữu hiệu nhất
nhằm đổi mới hoạt động của DNNN, đa dạng hóa hình thức sở hữu và đổi
mới phương thức hoạt động của DN, phương thức quản lý kinh tế của Nhà
nước, tạo động lực cho người lao động thực sự làm chủ DN, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh và thu hút vốn đầu tư trong xã hội. CTCP là một
trong những xu hướng chuyển đổi và hình thành DN chính trên thế giới, đặc
biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp lại DNNN ở nước ta từ năm 1992
đến nay đã có kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, tiến độ CPH nói riêng và sắp
xếp DNNN nói chung còn diễn ra chậm so với kế hoạch. Nguyên nhân của
1
Khóa luận tốt nghiệp
tình hình đó là do đâu? Và làm thế nào để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ
CPH? Để góp phần làm rõ hơn vấn đề này, trong thời gian thực tập em đã

nước không giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà
nước giữ quyền chi phối.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu, thay đổi trong
cơ chế quản lý kinh tế. Điều 1 trong Luật DNNN 2003 được phát triển tương
đối sâu trong cách định nghĩa DNNN: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước
giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN
quản lý”. Luật này áp dụng với các DNNN tổ chức dưới hình thức DN độc
lập, tổng công ty, DN thành viên của tổng công ty và quản lý phần vốn của
Nhà nước đầu tư ở các DN. Như vậy, khái niệm trên đã phản ánh những thay
đổi cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và các nhà hoạch định chính
3
Khóa luận tốt nghiệp
sách đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Điều đó thể hiện ở chỗ: việc xác
định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu. Quan niệm trên đã thừa
nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN, tiêu chí
xác định DNNN là quyền kiểm soát và chi phối DNNN. Như vậy, DNNN có
thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Quan niệm trên là một sự tiến bộ
lớn trong cách nhận thức, mở đường cho các cải cách liên quan đến DNNN
sau đó.
1.1.2. Đặc điểm của DNNN
1.1.2.1. DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nước
Quyền sở hữu DNNN thuộc về Nhà nước, thể hiện ở lượng vốn chủ yếu ở
các DNNN là do Nhà nước đầu tư. Việc sở hữu này quyết định sự kiểm soát
của Nhà nước ở một mức độ nhất định và quyền can thiệp vào các hoạt động
kinh doanh của DN. Người quản lý DN không có quyền đối phó với những
điều kiện thay đổi của thị trường. Các tổ chức lao động trong DNNN mạnh

thiết, nhưng như vậy lại không đảm bảo được số lượng việc làm cao. Khu vực
DNNN gặp khó khăn trong việc đề ra một phương án thích hợp động viên
người quản lý, sa thải nếu làm việc không hiệu quả là một việc rất ít làm vì
chế độ biên chế nhà nước hoàn toàn khác với chế độ hợp đồng của khu vực tư
nhân. Các khoản lương, đãi ngộ nếu quá cao cũng sẽ bị phản đối bởi các
người lao động khác trong DN. Do vậy, người quản lý hoàn toàn có thể tuân
theo những động cơ có lợi khác, ưu tiên cho những người mang lại cho họ
phần thưởng về uy tín và quyền lực chính trị trong tương lai hơn là thu hút
những người có năng lực thực sự làm giàu cho DN. Đây cũng là một khó
khăn lớn trong quản lý DNNN.
1.1.2.3. Chế độ trách nhiệm trong DNNN
5
Khóa luận tốt nghiệp
Việc đại diện cho chủ sở hữu, cho Nhà nước trong các DNNN phức tạp
và nhiều tầng cấp. Các Bộ, UBND tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công ty Nhà
nước hay công ty Nhà nước được coi là đại diện của chủ sở hữu. Tuy nhiên
các cơ quan này không phải là đại diện theo đúng nghĩa, chỉ có một số cá
nhân cụ thể của những cơ quan này thực hiện chức năng đại diện. Vì vậy, sự
phân quyền trách nhiệm là đa cấp, không xác định rõ nội dung mối quan hệ
đại diện phát sinh giữa chủ sở hữu Nhà nước với cơ quan đại diện cho chủ sở
hữu và đại diện của cơ quan đại diện. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc
ra một quyết định vì phải lấy ý kiến của rất nhiều cấp có liên quan, là lý giải
cho sự chậm trễ của các quyết định cũng như việc phát sinh cái gọi là “lỗi của
tập thể”.
1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
1.2.1. Khái niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
- CPH DNNN là việc chuyển DN mà chủ sở hữu là Nhà nước (DN đơn
sở hữu) thành CTCP (DN đa sở hữu), chuyển DN từ chỗ hoạt động theo Luật
DNNN sang DN hoạt động theo các quy định về CTCP trong Luật DN. Điều
1 thông tư 50 TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính ghi rõ: DNNN

đông sáng lập và họ có những quyền lợi đặc biệt trong một thời hạn nhất định
theo quy định của pháp luật.
* Chuyển loại hình tổ chức kinh doanh không phải CTCP thành CTCP.
Việc chuyển hóa các loại hình DN không phải CTCP sang hoạt động theo quy
chế của CTCP gọi là CPH. Đây là hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế thị
trường, các nhà kinh doanh có quyền tự do lựa chọn loại hình tổ chức kinh
doanh trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
1.2.2. Các chủ trương, chính sách về CPH DNNN
7
Khóa luận tốt nghiệp
Đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc sắp xếp các DNNN được thực hiện
bằng các giải pháp: sáp nhập, CPH, giao, bán, khoán, cho thuê DN, tổ chức
lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải
pháp trên thì CPH được coi là một giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu
lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Chủ
trương CPH đã được bắt đầu từ năm 1991, với tinh thần Nghị quyết Hội nghị
TW Đảng lần 2 khóa VII (11-1991): “Chuyển một số DN quốc doanh có điều
kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải
làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng
phạm vi thích hợp”.
- Thời kì thí điểm (1992-1996): Ngày 8-6-1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng ban hành Chỉ thị số 202/CT về thí điểm chuyển một số DNNN thành
CTCP. Văn bản của Hội Đồng Bộ Trưởng quy định chuyển một số DNNN
đáp ứng các điều kiện: quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi hoặc triển vọng
có lãi, Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức
CTCP. Đối tượng được ưu tiên mua cổ phần là người lao động trong DN,
DNNN khác, hạn chế bán cổ phần cho tư nhân hoặc cho tư nhân trong nước
và ngoài nước.
Tuy nhiên, đối tượng được mua cổ phần đã được mở rộng theo tinh thần

dẫn đến bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN.
Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khóa
IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg (24/8/2004) ban hành
tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch
toán độc lập thuộc Tổng công ty nhà nước. Quy định thu hẹp hơn những
9
Khóa luận tốt nghiệp
ngành, lĩnh vực Nhà nước nắm giữ 100% vốn, nắm giữ cổ phần chi phối trên
50%, quy định những công ty cần tiến hành đa dạng hóa sở hữu dưới các hình
thức CPH, quy định các điều kiện tồn tại đối với tổng công ty nhà nước và
những tổng công ty nhà nước không đáp ứng đủ các điều kiện sẽ được sắp
xếp lại theo hướng sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể sau khi sắp xếp lại các
công ty thành viên.
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ bổ sung
đối tượng CPH là các công ty nhà nước có quy mô lớn, kể cả các tổng công ty
Nhà nước, đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong cơ chế
CPH DNNN trước đây, đồng thời cũng bổ sung hướng giải quyết, tháo gỡ
vướng mắc cho các DN sau khi chuyển thành CTCP. Quy định rõ đối tượng
và điều kiện CPH, bổ sung các giải pháp xử lý các tồn tại về tài chính cho các
DNNN trước khi CPH, hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng
gắn với thị trường và đảm bảo tính khách quan, minh bạch.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới
DNNN của các Bộ, ngành, Tổng công ty 91. Chỉ thị số 04/2005/CT-TTg ngày
17/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW, thực hiện
nghiêm Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty Nhà nước thành
CTCP, đảm bảo nguyên tắc thị trường trong CPH DNNN, thực hiện xác định
giá trị DN thông qua các tổ chức có chức năng định giá, không CPH khép kín
trong các DN, thực hiện bán đấu giá cổ phần công khai.

cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, DN, nhà đầu tư và người lao
động trong DN.
11
Khóa luận tốt nghiệp
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường, khắc
phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN, gắn với phát triển thị
trường vốn và thị trường chứng khoán.
12
Khóa luận tốt nghiệp
2.2. Đối tượng cổ phần hóa
Ở nước ta, CPH được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới, sắp xếp
DNNN. Theo quyết định số 58/2002 của Thủ tướng Chính phủ (26/4/2002),
DNNN được phân loại như sau:
- DN có số vốn điều lệ Nhà nước nắm giữ là 100%
- DN Nhà nước nắm giữ cổ phần khi CPH
- DN Nhà nước không nắm giữ cổ phần khi CPH
Như vậy, các DNNN CPH chỉ cần thỏa mãn một điều kiện là DN không
thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Đối tượng áp dụng CPH (theo Nghị định 64/2002 của Chính phủ) là các
DN và đơn vị phụ thuộc của các DN quy định tại điều 1 của Luật DN không
phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh của DN.
Tiếp theo, tại Nghị định 109/2007 đã ghi rõ đối tượng thực hiện CPH là:
- Công ty Nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước.
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà
nước quyết định đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty Nhà nước độc lập, tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc

toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ.
2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa
Đây là vấn đề quan trọng cũng như phức tạp nhất trong quá trình tiến
hành CPH DNNN ở nước ta. Vì vậy, những quy định về vấn đề này có lẽ
14
Khóa luận tốt nghiệp
được xem xét nhiều nhất. Các quy định về tài chính được thay đổi phù hợp
với các vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện những nghị định
trước. Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định rõ:
2.5.1. Kiểm kê, phân loại tài sản và xử lý tồn tại về tài chính
- DN CPH có trách nhiệm thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng
năm theo chế độ Nhà nước quy định. Nếu thời điểm xác định giá trị DN
không trùng với thời điểm kết thúc năm tài chính, DN cổ phần có trách nhiệm
lập báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá trị DN.
- Trên cơ sỏ kết quả kiểm kê, kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, DN
CPH có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan chủ động xủ lý theo
thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về tài chính trước
khi xác định giá trị DN CPH.
2.5.2. Các khoản nợ phải thu
- DN CPH có trách nhiệm đối chiếu, thu hồi các khoản nợ phải thu đến
hạn trước khi CPH. Đến thời điểm xác định giá trị DN còn tồn đọng nợ phải
thu khó đòi thì xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn
đọng.
- DN CPH có trách nhiệm bàn giao các khoản công nợ không có khả
năng thu hồi đã loại khỏi giá trị DN CPH cho các cơ quan có thẩm quyền liên
quan.
- Đối với các khoản đã trả trước cho người cung cấp hàng hóa dịch vụ
như: tiền thuê nhà, thuê đất, mua hàng, tiền công phải đối chiếu với hợp đồng
để tính vào giá trị DN CPH.

bán cổ phần đều chấp nhận được.
16
Khóa luận tốt nghiệp
- Khi CPH toàn bộ tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì giá trị vốn nhà
nước là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.Trường hợp CPH công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con
thì giá trị vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn Nhà nước tại công ty mẹ. Đối
với các tổ chức tín dụng, tài chính, khi xác định giá trị DN theo phương pháp
tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản
vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối
với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị quyền sử dụng đất theo
chế độ Nhà nước quy định.
- Riêng các khoản sau đây không được tính vào giá trị DN để CPH: các
khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi; chi phí xây dựng cơ bản dở
dang của những công trình đã có quyết định hoãn của cấp có thẩm quyền
trước thời điểm xác định giá trị DN..
- Các căn cứ để xác định giá trị thực tế của DN gồm: số liệu theo sổ kế
toán của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; tài liệu kiểm kê, phân loại và
đánh giá chất lượng tài sản của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; giá trị
thị trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; giá trị quyền sử dụng đất
được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của DN.
Trong các căn cứ trên, vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề
được nêu ra cụ thể nhất.
- Đối với diện tích đất DN CPH đang sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ
sở, văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh…thì DN CPH
có trách nhiệm xây dựng phương án sử dụng đất trình cơ quan có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Nếu DN được giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng
đất vào giá trị DN theo giá đất đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW
quy định và công bố. Trong trường hợp DN lựa chọn hình thức thuê đất, nếu
DN trả tiền thuế đất hàng năm thì không tính tiền thuê đất vào giá trị DN, nếu

* Giới thiệu khái quát về công ty, tình hình, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty trong 3-5 năm liền trước khi CPH.
* Đánh giá thực trạng về tài sản, tài chính, công nợ, lao động của công ty
tại thời điểm xác định giá trị DN.
* Phương án sắp xếp lại lao động.
* Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3-5 năm tiếp theo.
* Hình thức CPH và vốn điều lệ theo yêu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh của CTCP.
* Dự kiến cơ cấu vốn điều lệ: số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần
bán ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược, số cổ phần ưu đãi cho người lao
động.
* Phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định
- Tổ chức hội nghị công nhân viên chức lấy ý kiến hoàn thiện phương án
cổ phần.
- Ban chỉ đạo thẩm định phương án CPH báo cáo cơ quan quyết định
CPH quy định.
- Cơ quan quyết định CPH xem xét ra quyết định phê duyệt phương án
CPH trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo
cáo của Ban chỉ đạo.
Bước 2: Tổ chức bán cổ phần
1. Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định.
2. Tổ chức bán cổ phần, DN có thể lựa chọn một trong các hình thức
sau: bán đấu giá trực tiếp tại DN, bán cổ phần tại tổ chức tài chính
trung gian, bán cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
3. Tổng hợp kết quả bán cổ phần cho cơ quan quyết định CPH.
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển DN thành CTCP
19
Khóa luận tốt nghiệp
1. Tổ chức đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất thông qua Điều lệ tổ chức
và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu HĐQT.

sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết… là lực lượng chủ lực thực
hiện các chính sách xã hội thông qua các DN công ích. Nhờ có DNNN và lực
lượng vũ trang, chúng ta có khả năng ứng phó đặc biệt có kết quả trong việc
khắc phục ảnh hưởng và hậu quả thiên tai.
Sự phát triển của DNNN trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng
lượng, bưu chính viễn thông, dịch vụ… đã tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác phát triển.
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng DN và phần tài trợ của Nhà nước,
DNNN vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản
phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật
tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách
Nhà nước.
Ngoài ra, DNNN còn đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội và ổn định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn
minh, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm,
thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo
dục, y tế.
- DNNN là khu vực kinh tế có đóng góp tích cực trong hoạt động xuất
nhập khẩu. DNNN là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như
dầu thô, than, gạo, hàng may mặc… Đồng thời, DNNN cũng tạo trên 98%
tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, với tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập
khẩu bình quân hàng năm là 20%, đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể cho
khu vực này. Cũng nhờ vậy, khu vực DNNN chiếm vị trí khá quan trọng
trong các nguồn thu của ngân sách nhà nước, các khoản tài trợ trực tiếp và
21
Khóa luận tốt nghiệp
gián tiếp từ ngân sách cho các DNNN đã giảm làm cho phần đóng góp thực
của DNNN vào ngân sách tăng lên.
- Tổng công ty nhà nước thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh
tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương

giảm thuế, xóa nợ, khoanh nợ, giãn nợ, cho vay vốn tín dụng ưu đãi.. Tuy
nhiên việc hỗ trợ này ở nhiều DN, nhiều địa phương không mang lại hiệu quả
tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ
trợ cho DN loại này.
- Thứ hai, lao động thiếu việc làm và dôi dư là một khó khăn lớn, ảnh
hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của Bộ lao
động thương binh và xã hội thì hiện nay số lượng lao động không có việc làm
trong DNNN khoảng 6% nhưng trên thực tế nhiều DNNN có số lao động quá
lớn so với yêu cầu như Tổng công ty than Việt Nam, các nhà máy xi măng địa
phương.. Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao
hơn, tiếp đến là các Bộ, ngành TW. Bên cạnh đó, phần lớn người lao động
không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng đến năng suất
lao động của DN. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của DN thì Nhà nước chưa
có cơ chế giám sát tuyển dụng lao động, trả công lao động gắn với hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của DN nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều
DN còn rất tùy tiện. Ngoài ra, phần lớn DNNN ở nước ta đều hình thành từ cơ
chế quản lý tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh
của chế độ cũ, trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới không có đủ điều
kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng.
- Thứ ba, DNNN còn nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo theo cơ quan
quản lý và ngành nghề. Đến nay trong cả nước có gần 4000 DNNN với số
lượng DN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Trong lĩnh vực thương
23
Khóa luận tốt nghiệp
mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng, số DNNN chiếm hơn 25% tổng số DNNN
nhưng vốn bình quân chưa bằng 50% mức bình quân của cả nước. Nhiều
DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh
doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng
có trong chính khu vực DNNN với nhau. Các DN thuộc cùng một ngành kinh
tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác

Đổi mới, sắp xếp DNNN bao gồm cả đổi mới hình thức của các DN và
cách thức quản lý cũng như cơ chế hoạt động. Đổi mới, sắp xếp DNNN gồm
các hình thức chính sau:
- Tiến hành sắp xếp, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN để khu vực
DNNN có cơ cấu hợp lý, quy mô vừa và lớn, có sức cạnh tranh và hoạt động
hiệu quả hơn.
- Tổ chức, củng cố và phát triển tổng công ty nhà nước nhằm tập trung
nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần nắm giữ.
- CPH một bộ phận DNNN mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn
để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
- Thực hiện bán, giao, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN quy
mô nhỏ thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, đảm bảo
việc làm và thu nhập của người lao động.
Mục tiêu và nhiệm vụ của đổi mới, sắp xếp DNNN nhằm:
- Cất giảm số lượng DNNN đang quá lớn và đang chi phối sâu vào mọi
hoạt động của nền kinh tế. Việc duy trì DNNN để thực hiện vai trò điều tiết
trong nền kinh tế thị trường là đòi hỏi cần thiết nhưng phải cần nhận thức
đúng đắn rằng nền kinh tế thị trường chỉ chấp nhận việc duy trì mức độ hợp lý
của hệ thống DNNN để đảm bảo chức năng điều tiết hiệu quả.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status