TIỂU LUẬN: VỀ TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH HỆ GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC MỚI doc - Pdf 12


TIỂU LUẬN:

V
Ề TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH
THÀNH HỆ GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC MỚI
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời
đại”(1) là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề này trong

trình đổi mới, quá trình hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. Sự phân
tích những mối liên hệ, tính quy định đó sẽ làm bộc lộ những tính quy luật căn bản
chi phối quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Trên cơ sở đó,
những nghiên cứu ở các cấp độ cụ thể hơn sẽ được liên kết lại như là những yếu tố,
những công đoạn của một cách tiếp cận đầy đủ và nhất quán.
Có thể thấy, sự nghiệp hiện đại hoá đất nước đang diễn ra dưới tác động của nhiều
nhân tố; nhưng có ba nhân tố cơ bản nhất đang tác động, quy định chiều hướng vận
động, biến đổi xã hội nói chung, các giá trị và chuẩn mực đạo đức nói riêng là kinh tế
thị trường, tiến bộ công nghệ, hội nhập và giao lưu văn hoá. Ngày nay, không thể
nói đến phát triển, hiện đại hoá xã hội nếu không thực hiện kinh tế thị trường; không
đẩy nhanh những nghiên cứu và áp dụng các thành tựu công nghệ trong sản xuất
cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không mở cửa giao lưu, hội nhập
quốc tế. Sự thực hiện các quá trình này tất dẫn đến những biến đổi đạo đức thích ứng
và đáp ứng yêu cầu của chúng.
Việc phân tích những yêu cầu của kinh tế thị trường trong mối liên hệ với đạo đức sẽ
cho thấy những hạn chế, những bất cập về mặt giá trị của đạo đức truyền thống.
Chẳng hạn, dưới tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kinh tế thị
trường đòi hỏi tính tích cực năng động, tính thực tế, tính hiệu quả của hoạt động
người. Bởi vậy, việc coi nhẹ các giá trị vật chất, coi trọng động cơ và coi nhẹ hiệu

quả của hoạt động, tính duy cảm, thiếu nguyên tắc trong giải quyết các quan hệ xã
hội,…với tư cách là các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống trở nên bất cập
trong điều kiện hiện nay. Chúng cần được khắc phục trong sự xác lập nội dung của
hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Đồng thời, những yêu cầu của kinh tế thị
trường lại đòi hỏi con người phải coi trọng cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, cả
giá trị cá nhân lẫn giá trị xã hội; đòi hỏi những ứng xử đạo đức được thực hiện bởi
những chủ thể có sự phát triển nhân cách độc lập, có ý thức về sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ công dân. Chính những đòi hỏi mang tính quy luật đó của kinh tế
thị trường đặt ra yêu cầu bổ sung vào hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội những
giá trị và chuẩn mực mới.

xã hội. Điều đó cũng có nghĩa rằng, chủ động và tích cực gia nhập vào quá trình giao
lưu văn hoá là yêu cầu có tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức mới trong điều kiện hiện nay.
Tuy vậy, mối liên hệ giữa các nhân tố cơ bản của quá trình hiện đại hoá với sự hình
thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức không chỉ biểu hiện theo chiều thuận, mà còn
biểu hiện theo chiều nghịch. Nói cụ thể hơn, kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ và
giao lưu văn hoá không chỉ đòi hỏi và tạo kiện cho sự hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực đạo đức mới, mà còn tác động tiêu cực đến chính quá trình này. Vì thế, yêu cầu
về mặt lý luận của những nghiên cứu đạo đức là xác định và phân tích tác động tiêu
cực cùng những biểu hiện của tác động tiêu cực đó.
Kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cạnh tranh dựa trên sự thừa nhận và
khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên đó là lợi ích cá nhân chính đáng). Đồng thời,
kinh tế thị trường cũng giả định một nền pháp chế tương ứng để đảm bảo cho nó vận
hành một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, chủ thể của các hoạt động, các quan hệ thị
trường là con người kinh tế; mà con người kinh tế thì cứ có lợi ích là nó hoạt động.
Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường có cội nguồn sâu xa từ đây. Chủ nghĩa cá
nhân với tư cách một giá trị, một định hướng sống không duy nhất là sản phẩm của
kinh tế thị trường, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, với việc khuyến khích
lợi ích cá nhân, nó thực sự có điều kiện để phát triển. Để khắc phục nghịch lý này,
vấn đề đặt ra sẽ là giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc giải quyết một cách hợp lý mối

quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chỉ có thể được thực hiện triệt để thông
qua sự kết hợp các giải pháp về luật pháp, chính sách kinh tế với các giải pháp về
giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Như vậy, chính những tác động từ
mặt trái của kinh tế thị trường đã đặt ra vấn đề xác định và kết hợp các giải pháp
nhằm khắc phục chủ nghĩa cá nhân, đảm bảo cho các giá trị cộng đồng của đạo đức
truyền thống được kế thừa, có vị trí thích đáng bên cạnh các giá trị cá nhân trong hệ
giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Tiến bộ công nghệ trong khi tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí, trí tuệ, nghĩa là tạo

hiện cực đoan nhất là sự bắt chước) về mặt văn hoá, đạo đức; đồng thời dẫn đến xu
thế xem nhẹ, lãng quên các giá trị đạo đức truyền thống ở các xã hội đang đẩy mạnh
quá trình hiện đại hoá hiện nay. Cùng với điều đó, sự gia tăng tốc độ của việc áp
dụng, thay thế các công nghệ là yêu cầu có tính quy luật của hiện đại hoá. Sự thay
thế nhanh chóng các giá trị công nghệ khi được chuyển dịch sang lĩnh vực văn hoá sẽ
dẫn đến thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những giá trị, những chuẩn mực tinh thần,
đạo đức truyền thống, dẫn đến tâm trạng bất an về mặt xã hội, cản trở sự xác lập hệ
giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Khắc phục chủ nghĩa hư vô, khẳng định sự trường
tồn của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống bằng cách đổi mới nội dung,
nâng cấp chúng trên tinh thần những đòi hỏi của điều kiện mới cũng là một trong
những tính quy luật của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Giao lưu văn hoá, bên cạnh những tác động tích cực, cũng tạo ra những trở ngại nhất
định cho sự hình thành các giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Biểu hiện nổi bật của
trở ngại này là sự ngộ nhận giá trị. Sự ngộ nhận giá trị vừa có nguyên nhân kinh tế,
công nghệ, vừa có nguyên nhân chính trị. Mức sống cao cùng những tiện nghi sinh
hoạt và cả sự tuyên truyền không thiện ý đã làm cho một bộ phận không nhỏ dân
chúng trong các nước mới bước vào quá trình hiện đại hoá lầm tưởng tất cả những gì
được đưa đến từ phía các nước phát triển đều là giá trị. Các hình thức sản phẩm văn
hoá đa dạng, mạng Internet toàn cầu là thành tựu về mặt công nghệ, là phương tiện
hùng mạnh của giao lưu văn hoá. Nhưng bên cạnh những lợi ích hiển nhiên, chúng
còn tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc giữ gìn các giá trị, chuẩn mực
đạo đức truyền thống của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc phương Đông. Khắc
phục tác động tiêu cực từ mặt trái của giao lưu văn hoá cũng là một trong những tính

quy luật và do đó, là một trong những yêu cầu của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn
mực đạo đức mới hiện nay.
Như vậy, những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đều tác
động có tính hai mặt đối với sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Những tác động đó mang tính quy luật, quy định nội dung và vị trí của các giá trị,
chuẩn mực trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội. Đồng thời, chúng cũng đòi

đánh giá lại những thành tựu đã đạt được trên các mặt như: nghiên cứu vấn đề vật
chất và ý thức,nghiên cứu về phép biện chứng duy vật. Trong bài viết này, chúng tôi
không trình bày lại một cách chi tiết những kết quả cụ thể, mà chỉ nêu lên một số
nhận định khái quát; trên cơ sở đó, trình bày những vấn đề hiện đang đặt ra trong
lĩnh vực nghiên cứu này.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết
học đã có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu các quan niệm khác
nhau về vật chất và ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức, nhất là quan niệm của
triết học Mác - Lênin về các vấn đề này. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã tập trung
làm sáng tỏ, phân tích quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về hai
phạm trù cơ bản và rộng nhất của triết học cũng như mối quan hệ giữa chúng. Song,
để có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tầm cỡ về vấn đề này và nhất là
để có những nghiên cứu có giá trị làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho hoạt
động cải tạo thực tiễn và nhận thức khoa học, những người làm công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học cần có sự đầu tư công sức nhiều hơn nữa, đồng thời cần có sự
hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học khác, đặc biệt là
với các nhà khoa học tự nhiên.
Cũng như những vấn đề xung quanh các phạm trù vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa chúng, trong hơn nửa thế kỷ qua, phép biện chứng duy vật đã được nghiên cứu
khá toàn diện.
Trước hết, cần khẳng định rằng, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xác định phép biện chứng duy vật như là "khoa học về mối liên hệ
phổ biến" và là "khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy". Kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, V.I.Lênin đã coi "phép biện chứng
là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển".

Căn cứ vào những chỉ dẫn trên đây của các tác gia kinh điển, các nhà triết học
mácxít ở Liên Xô đã phân chia phép biện chứng duy vật thành ba bộ phận chủ yếu,
đó là: hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù. Ở Việt Nam, trong các giáo
trình triết học, nội dung của phép biện chứng cũng được quan niệm tương tự như

về sự phát triển của phép biện chứng duy vật trong lĩnh vực xã hội.
Cùng với nguyên lý về sự phát triển, các quy luật cơ bản của phép biện chứng cũng
đã được chú ý nghiên cứu một cách thích đáng hơn. Một số công trình nghiên cứu
mang tính chất cơ bản và ứng dụng đã được công bố.
Trước hết, cần nói đến các nghiên cứu xung quanh phạm trù quy luật. Đây là phạm
trù hết sức cơ bản của phép biện chứng duy vật. Phạm trù đó đã được các nhà triết
học trong lịch sử bàn luận tương đối nhiều và tưởng như mọi thứ đã trở nên rõ ràng,
không còn vấn đề gì phải tranh luận. Nhưng, đến năm 1986, khi Đảng ta nêu ra "Bài
học về tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan" thì vấn đề nội dung của
phạm trù quy luật lại bắt đầu được đặt trở lại. Bởi lẽ, để tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan thì điều quan trọng trước tiên là cần phải hiểu thế nào là
quy luật?
Trước yêu cầu đó, trong khoảng mươi năm gần đây, một số tác giả đã xem xét
phạm trù quy luật dưới góc độ lịch sử, tập trung làm rõ các quan điểm khác nhau
trong lịch sử triết học về quy luật; trên cơ sở đó, nêu lên những đặc trưng cơ bản
nhất của phạm trù đó. Một số tác giả khác xem xét mối quan hệ giữa phạm trù quy
luật với các phạm trù khác của phép biện chứng duy vật để từ đó, vạch ra sự tương
đồng và khác biệt giữa phạm trù quy luật và các phạm trù khác của phép biện
chứng duy vật. Ngoài ra, phạm trù quy luật còn được xem xét trong mối tương
quan với phạm trù mâu thuẫn(1), v.v
Trong số ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: quy luật mâu thuẫn (hay
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập), quy luật lượng chất và quy
luật phủ định của phủ định thì trong những năm qua, quy luật mâu thuẫn được tập
trung nghiên cứu nhiều hơn cả. Sở dĩ như vậy không phải chỉ vì quy luật mâu thuẫn
là quy luật cơ bản nhất, hay nói như V.I.Lênin, là "hạt nhân" của phép biện chứng,
mà chủ yếu là vì, trong những năm qua, nhiều vấn đề thực tiễn đã đặt ra một cách
hết sức cấp bách và muốn giải quyết chúng buộc phải trở lại những vấn đề cơ bản

có liên quan đến nội dung của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu
những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta hiện nay, chúng ta buộc phải giải quyết

Theo hướng nghiên cứu cơ bản, những người làm công tác nghiên cứu triết
học, một mặt, đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở đó, có sự điều chỉnh, chính xác hoá những cách hiểu
khác nhau để từ đó, ngày càng có được cách hiểu chính xác hơn; mặt khác, nghiên
cứu sâu về một vấn đề nào đó, trên cơ sở ấy, đề ra những nguyên tắc phương pháp
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, những người làm công tác nghiên cứu triết học
tập trung vào những vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra bằng cách áp dụng những
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trong những năm qua, số công
trình nghiên cứu theo hướng này nhiều hơn. Bởi lẽ, các nghiên cứu như vậy gần đây
được đầu tư nhiều hơn và đồng thời, cũng dễ thực hiện hơn.
Chúng tôi cho rằng, cả hai hướng nghiên cứu đó đều rất cần thiết. Trong tương lai,
các hướng nghiên cứu như vậy cần được tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, phải thẳng
thắn thừa nhận rằng, so với yêu cầu phát triển của chuyên ngành và của thực tiễn thì
những kết quả đạt được trong thời gian qua còn khá khiêm tốn. Vì vậy, theo chúng
tôi, để góp phần làm cho các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung
và phép biện chứng duy vật nói riêng đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn, cần kết
hợp một cách chặt chẽ hơn nữa giữa các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu ứng
dụng.
Trước hết, trong các nghiên cứu cơ bản, cần đầu tư và tìm cách khắc phục những
"mảng trống" trong nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Như đã trình bày ở
trên, những "mảng trống" trong chủ nghĩa duy vật biện chứng còn khá nhiều. Trong
số đó, không ít những "mảng trống" rất cần được nghiên cứu để giải quyết những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách. Ngay cả những vấn đề đã được nghiên cứu gọi
là tương đối nhiều thì không phải mọi thứ đều đã có câu trả lời rõ ràng. Thêm vào
đó, cuộc sống hiện nay đã và đang đặt ra và đặt lại nhiều vấn đề triết học khá căn
bản.
Chẳng hạn, ngay vấn đề vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng đã và đang có
những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo về mặt khoa học. Như mọi người đều



đó; những hiện tượng tìm mộ hay nói chuyện với người âm là hiện tượng có thật
hay chỉ là ảo thuật của các thày gọi hồn, v.v Đứng về mặt khoa học, đó là những
hiện tượng cần phải được lý giải một cách nghiêm túc. Khi khoa học chưa giải
quyết được thấu đáo thì đó lại là mảnh đất cho tôn giáo phát triển.
Hoặc khi nói về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, các nhà sáng lập chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng, thực tiễn là cơ sở, là động lực, đồng thời là tiêu chuẩn
của chân lý. Nhưng, bản thân các ông lại khẳng định rằng, tiêu chuẩn thực tiễn chỉ
có tính tương đối và xét đến cùng, ngoài thực tiễn, để kiểm tra tính đúng đắn của
chân lý còn cần sử dụng các tiêu chuẩn khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn lôgíc. Vấn
đề đặt ra là, tiêu chuẩn thực tiễn có mối quan hệ như thế nào với tiêu chuẩn lôgíc và
nên hiểu tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn như thế nào và vận dụng nó ra sao
trong quá trình kiểm tra tính đúng đắn, tính chân lý của nhận thức, v.v Có thể nói,
còn rất nhiều vấn đề tương tự như vậy cần được nghiên cứu thấu đáo về mặt lý luận
và để nghiên cứu những vấn đề đó thì cần phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ
giữa những người làm công tác triết học với những người làm công tác nghiên cứu
của các ngành khoa học khác. Cái khó cho những người nghiên cứu về chủ nghĩa
duy vật biện chứng hiện nay là, để nghiên cứu tốt những vấn đề của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, người nghiên cứu phải nắm được những kiến thức nhất định về
khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “ muốn có một quan niệm vừa biện chứng vừa duy vật về tự nhiên thì người
ta phải biết toán học và khoa học tự nhiên”(3). Bản thân Ph.Ăngghen cũng đã từng
bỏ ra phần lớn thời gian trong tám năm để học toán học và khoa học tự nhiên.
Nhưng đối với nước ta hiện nay, việc tìm được một người vừa giỏi triết học, vừa
thạo khoa học tự nhiên là quá khó.
Theo chúng tôi, các nghiên cứu cơ bản là tiền đề và cơ sở
cho các nghiên cứu ứng dụng. Các nghiên cứu ứng dụng chỉ có thể có hiệu quả nếu
được dựa trên một cơ sở vững chắc, đó là các nghiên cứu cơ bản. Lúc sinh thời,
V.I.Lênin đã từng nhận xét rằng, "người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước
khi giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi

của những kết luận mà triết học đem lại đối với xã hội là vô cùng to lớn, là vô giá
mà không thể nào tính thành tiền được. Bởi những kết luận đó có thể làm thay đổi

cả xu hướng hoạt động của xã hội.
Chúng tôi cho rằng, cũng như bất kỳ một ngành khoa học nào khác, triết học nói
chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng có nhiệm vụ góp phần thiết thực vào
việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nhưng để có nhiều đóng góp
thiết thực, những người làm công tác triết học phải đứng từ góc độ chuyên môn của
mình, bằng con đường riêng, thông qua cách thức riêng của triết học, chứ không
hoàn toàn giống các khoa học khác. Nếu không chú ý đến nét đặc thù của triết học,
đến đúng góc độ mà từ đấy, triết học cần phải làm để góp phần mình vào việc đáp
ứng những đòi hỏi của thực tiễn thì những người làm công tác nghiên cứu và giảng
dạy triết học dễ bị lấn sân sang lĩnh vực của các môn khoa học khác, lĩnh vực mà họ
không hiểu biết một cách thấu đáo. Trong trường hợp đó, chắc chắn hiệu quả đóng
góp của những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học sẽ không cao.
Xuất phát từ quan niệm như vậy, chúng tôi cho rằng, để gắn các nghiên cứu chủ
nghĩa duy vật biện chứng với thực tiễn, làm cho các nghiên cứu đó phục vụ thực
tiễn có hiệu quả hơn và đúng góc độ chuyên môn của mình, nhiệm vụ của các nhà
triết học không phải tự mình lao vào giải quyết từng vấn đề cụ thể, mà phải đi sâu
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề triết học nảy sinh từ vấn đề cụ thể do thực
tiễn đất nước đề ra và thông qua đó, góp phần hoàn thiện lý luận triết học.
Cuối cùng, mục đích của các nhà nghiên cứu triết học nói chung, chủ nghĩa duy vật
biện chứng nói riêng không phải chỉ để nghiên cứu mà nhằm phục vụ thực tiễn. Vì
vậy, để các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn bó với thực tiễn, phục
vụ một cách thiết thực cho hoạt động thực tiễn, các nghiên cứu đó phải có nhiệm vụ
phản biện cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Điều đó có nghĩa là, từ các nghiên cứu của mình, những người làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy có nhiệm vụ góp tiếng nói phản biện cho các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để trên cơ sở đó, các cơ
quan Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ để đưa ra các quyết sách một cách hợp lý

Ph.Ăngghen về "ngẫu nhiên và tất nhiên” trong "Biện chứng của tự nhiên". T/c
Triết học, số 4-1995; Lê Minh Thọ. Quan niệm mácxít về mối quan hệ giữa cái
chung, cái riêng và việc vận dụng nó trong điều kiện Việt Nam hiện nay (Luận văn
thạc sĩ triết học). Viện Triết học, Hà Nội, 1998; Phạm Thị Hồng Yến. Quan hệ bản
chất, hiện tượng và vấn đề nhận thức bản chất sự vật (Luận văn thạc sĩ triết học).

Viện Triết học, Hà Nội, 1998; v.v…
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr. 22.
(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.15. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 437.
GÓP VÀO VIỆC DẠY TRIẾT HỌC MÁC CHO SINH VIÊN Ở NƯ
ỚC TA
HIỆN NAY

NGUY
ỄN TRỌNG CHUẨN(*)Đổi mới nghiên cứu và giảng dạy triết học là một chủ đề rất lớn. Trong bài viết này,
tôi chỉ đề cập đến một phạm vi rất hẹp là việc dạy triết học cho sinh viên không
chuyên triết học, vì đây là đối tượng trẻ và đông đảo.
1. Cần nhìn thẳng vào thực trạng việc giảng dạy và học triết học trong các nhà
trường để có sự đổi mới theo kịp sự đổi mới toàn diện của đất nước và hội nhập quốc
tế đang diễn ra rất nhanh trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay.
Những người giảng dạy và nghiên cứu triết học cũng như đông đảo các giới xã hội,
nhất là sinh viên, đều nhận ra những điều không ổn trong việc trang bị kiến thức triết
học hiện nay trong các nhà trường của chúng ta.

Thứ nhất, không phải lỗi của sinh viên.
Phải nói ngay rằng, người học, mà cụ thể là sinh viên của chúng ta, không có lỗi.
Sinh viên là là lứa tuổi rất ham hiểu biết, ưa chuộng sự thông thái và cách thức để trở
nên thông thái. Họ cần sự hiểu rộng hơn, cần biết nhiều hơn để rồi họ tự lựa chọn
những gì là tốt nhất, chứ không phải chỉ là sự áp đặt một chiều. Do vậy, chúng ta hãy
đi tìm nguyên nhân của việc họ chưa yêu môn học này ở những chỗ khác.
Thứ hai, về thời lượng.
Trong chương trình chính khoá dành cho các ngành không chuyên triết học thuộc tất
cả các khối, nhất là khối các ngành kỹ thuật hoặc khoa học tự nhiên, thì thời lượng

dành cho bộ môn Mác – Lênin không phải là ít so với thời lượng của các môn học
khác của chính các ngành học đó (do vậy, nhiều người lãnh đạo các khối ngành khoa
học tự nhiên và kỹ thuật phàn nàn về việc chiếm mất quá nhiều thời gian của họ)
nhưng thật ra lại bị phân tán, số giờ dành cho triết học khá hạn chế. Vì thời lượng
quá ít nên ngay cả những nội dung cơ bản nhất của chương trình đã sơ sài so với yêu
cầu cần phải có thì người giảng cũng không kịp truyền thụ hết.
Thứ ba, về chương trình và giáo trình.
Đất nước đang đổi mới rất nhanh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Khoa học và
công nghệ luôn có những cái mới xuất hiện hàng ngày. Triết học cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó. Tuy nhiên, chương trình học của chúng ta thì khô cứng và y
hệt nhau cho mọi đối tượng thuộc các chuyên ngành khác nhau.
Không ai có thể phủ nhận rằng, mọi chương trình triết học đều có những yêu cầu
phải đảm bảo những điều cốt yếu, đều có những cái chung. Song, cũng không được
quên rằng, nếu chương trình đó không phù hợp với những đòi hỏi đặc thù của từng
chuyên ngành thì sự hấp dẫn cũng chẳng có. Đó là một trong những lý do vì sao cùng
một chương trình nhưng người ta phải có những giáo trình viết riêng cho các khối
ngành khác nhau và vì sao triết học chưa chiếm được cảm tình hoặc chưa thật sự thu
hút nhiều người học ở nước ta.
Một khiếm khuyết rất lớn khác trong nội dung chương trình là không cho người học
biết được lịch sử của vấn đề, thậm chí quan điểm của chính C.Mác có lúc đã bị cắt

giải thích khác nhau, thậm chí từ đó hình thành các chi nhánh hay trường phái triết
học khác nhau. Đối với những luận điểm hay tư tưởng đó, nhiều khi dùng cách giải
thích thông thường là không đủ, nên có khi phải dùng đến cả phương pháp thông
diễn được hiểu theo nghĩa hiện đại mới hy vọng có thể chỉ ra hết ý nghĩa của chúng.
Vậy thì làm sao mà công thức hoá và sơ đồ hoá triết học lại không mắc thiếu sót,
không tầm thường hoá, thậm chí sai lầm được!
Có vô vàn thí dụ về điều này. Chẳng hạn, làm sao không sai lầm khi công thức hoá
hoặc sơ đồ hoá các quan điểm triết học cực kỳ phức tạp và mâu thuẫn của G.Béccơli,
của I.Cantơ, của Hêghen, v.v. hay các luận điểm của C.Mác như coi “tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”, “bản chất con người là tổng hoà (hay toàn bộ) các quan
hệ xã hội”! Chính vì sự máy móc đó mà có tài liệu đã khẳng định rằng, nhà duy tâm

chủ quan Béccơli rốt cuộc đã đi đến chủ nghĩa duy ngã! Tiếc thay, sự thật lịch sử lại
nói điều hoàn toàn ngược lại là chính Béccơli vì tránh duy ngã cho nên, dù ngoài ý
muốn, ông phải chuyển sang duy tâm khách quan.
3. Vậy, chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, cần xác định cho rõ mục đích dạy môn triết học trong nhà trường đại học,
cao đẳng và chuyên nghiệp. Chúng ta đã từng nói đến việc triết học có nhiệm vụ
trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho người học. Điều đó là hoàn toàn
đúng. Tiếc rằng, do chỉ chú trọng đến việc xây dựng lập trường chính trị nên suốt
một thời gian dài đã xảy ra tình trạng đồng nhất triết học với chính trị. Triết học phải
phục vụ chính trị. Đó là điều sơ đẳng ai cũng hiểu. Nhưng cái lớn hơn là triết học
phải làm chỗ dựa, là cơ sở cho chính trị. Chính triết học phục vụ chính trị đắc lực
nhất không phải chỉ ở sự thuyết minh đường lối, mà là ở chỗ cung cấp cơ sở cho
đường lối, ở sự phản biện lại một cách khoa học những quyết định trước khi được
thông qua để thi hành, ở việc xây dựng niềm tin khoa học cho mọi người đối với
đường lối bằng sự thuyết phục khoa học. Do vậy, triết học phải đạt được cả hai điều
là trang bị cho người học cách tư duy đúng đắn, phương pháp nhận thức khoa học
bên cạnh việc cung cấp tri thức. Cả hai thứ này đều không có sẵn trong mỗi con
người. Năng lực tư duy và phương pháp nhận thức cũng như tri thức phải được trang

người dạy. Điều này càng quan trọng hơn đối với chuyên ngành triết học nếu chúng
ta mong muốn có lớp người kế tiếp giỏi giang hơn lớp người đi trước.
Trong cuộc sống đương đại, chứ chưa nói đến tương lai, các môn học càng bớt đi sự
áp đặt, giáo điều và siêu hình bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Đặc biệt, môn triết
học phải là nơi giúp cho thế hệ trẻ có được môi trường mà ở đó, sự tự đọc, tự học, tự
suy tư, tự đánh giá sẽ tạo cho họ sự chủ động trong cuộc sống, hình thành ở họ khả
năng thích nghi nhanh, nhất là để tự họ tìm ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và vì
nó mà phấn đấu, mà khổ luyện. Chính điều này cũng sẽ giúp cho người học hình
thành ở họ khả năng tự ý thức, nghĩa là nâng ý thức lên trình độ cao hơn là tự ý thức,
chứ không dừng lại ở ý thức.
Một khi phương pháp giảng dạy đã thay đổi thì phương pháp kiểm tra và thi cử cũng
phải thay đổi cho phù hợp với thời gian đã được dành cho tự học và kích thích sự
sáng tạo nhiều hơn của người học .

Thứ tư, tạo điều kiện để bản thân cả người dạy và người học có thể trực tiếp đọc,
nghiên cứu từ các tác phẩm gốc (dù chỉ một số tác phẩm cốt yếu có liên quan) chứ
không chỉ qua sách giáo khoa, qua giáo trình, nghĩa là không chỉ qua nhãn quan của
người khác. Đã có không ít luận điểm quan trọng của các tác gia kinh điển của triết
học Mác nói riêng, triết học thế giới nói chung, đã bị ngộ nhận, bị cắt xén, bị giải
thích méo mó, sai lệch vì, một thời, nếu nói đúng nguồn gốc, xuất xứ của chúng hoặc
giải thích đúng như nguyên bản thì chúng trái với cái được ngộ nhận là “chính
thống”. Về những điểm này, đã có không ít người biết nhưng suốt một thời gian dài,
không ai dám nói gì. Nếu không có đường lối đổi mới toàn diện của Đảng thì chắc có
nhiều luận điểm chưa được đính chính, chưa được trích dẫn nguyên văn, thậm chí
hiện nay cũng còn những điểm vẫn đang bị giải thích một cách chủ quan.
Như vậy, có thể thấy, rất cần những đánh giá, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc
và thực chất trên quan điểm đổi mới về những mặt được và chưa được của việc đào
tạo, giảng dạy triết học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng. Chúng ta đã nói
đến đổi mới tư duy suốt hơn hai mươi năm nay nhưng sự đổi mới tư duy trong lĩnh
vực này thì quá chậm. Vì vậy, cần phải nói rằng, đổi mới việc giảng dạy, đào tạo triết


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status