Vấn đề lý luận chung về ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế và thực tế áp dụng tại chi nhánh công ty thái bình dương - Pdf 12

Lời nói đầu
Bất kỳ một hình thái kinh tế nào, việc phát triển nền kinh tế là một trong
những vấn đề cốt lõi thúc đẩy xã hội đi lên, cũng nh dảm bảo cho chế độ đó tồn
tại và phát triển, do vậy mục tiêu phát triển của nền kinh tế là rất quan trọng
Trong văn kiện Đại hội Đảng VI (6/1986) đã đề ra Giai đoạn này là giai
đoạn phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị tr-
ờng, có sự điều tiết của nhà nớc theo định hớng XHCN và hàng loạt các văn
bản pháp luật đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đã đợc nhà nớc ta ban hành,
trong đó pháp luật hợp đồng kinh tế đợc Hội đồng nhà nớc ban hành (nay là
UBTVQH) thông qua ngày 25/9/1989, có hiệu lực từ ngày 19/9/1989. Có thể
nói với t cách kiến trúc thợng tầng, Pháp lệnh HĐKT năm 1989 đã có những
đóng góp tích cực trong công cuộc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ thiết lập cơ chế
kinh tế mới, là sự phát triển chung của nền kinh tế nớc ta.
Em là sinh viên của khoa Kế toán Tài chính, em rất quan tâm về việc ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế đã áp dụng trong nhiều năm qua, nó đã làm
cho Việt Nam ta ngày càng phát triển trên thị trờng khu vực và thế giới. Đặc
biệt là vấn đề ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế. Sau khi kết thúc học chơng
trình Luật kinh tế của Khoa luật em đã lĩnh hội đợc nhiều kiến thức về pháp luật
nên em xin mạnh dạn đợc đề cập đến đề tài: Vấn đề lý luận chung về ký
kết thực hiện hợp đồng kinh tế và thực tế áp dụng tại chi
nhánh công ty Thái Bình Dơng.
Nội dung
Chơng I: Pháp lý về hợp đồng kinh tế
I. Những vấn đề lý luận về hợp đồng kinh tế.
1. Khái niệm chung về hợp đồng.
a. Khái niệm:
1
Hợp dồng là sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên bình đẳng với nhau
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong
quá trình thực hiện một công việc hay một giao dịch nhất định.
b. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội.

phần. Kinh tế quốc doanh tuy giữ vai trò chủ đạo nhng cha lớn mạnh, kinh tế
tập thể còn yếu. Kinh tế t bản còn ở trình độ thấp, kinh tế công - nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp còn rất rộng lớn. Kinh tế t bản và t doanh vẫn còn tồn tại
để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Chính phủ đã ban hanh điều lệ tạm thời về HĐKT
kinhh doanh số 735TTg 10/4/1957. Theo điều lệ này, HĐKT đợc ký kết nhằm
mục đích phát triển kinh doanh công thơng nghiệp góp phần thực hiện kế hoạch
Nhà nớc trên nguyên tắc tự nguyện hai bên cùng có lợi và có lợi cho phát triển
kinh tế quốc dân. Đến hiến pháp năm 1959 đã xác định mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nớc ta. Đại hội lần thứ III của Đảng cũng thông qua kế hoạch 5
năm lần thứ nhất 1960 - 1965 để xây dựng công nghiệp hoá. Bắt đầu công cuộc
cải tạo các thành phần kinh tế TBTN đã cơ bản hoàn thành kinh tế cá thể trong
Nhà nớc, đã chuyển hoá dần thành kinh tế tập thể thông qua phong trào hệ
thống hoá Nhà nớc, nền kinh tế chỉ còn lại hai thành phần kinh tế chủ yếu là
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Điều lệ tạm thời về HĐKT với nguyên tắc ký kết hợp đồng trên cơ sở
hoàn toàn tự nguyện đó không còn phù hợp nữa. Trong bối cảnh đố, Thủ tớng
chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT kèm theo nghị định
04TTg ngày 4/1/1960 HĐKT đợc xây dung trên cơ sở kế hoạch Nhà nớc, nhằm
thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nớc. Chủ thể HĐKT bị hạn chế chỉ trong phạm
vi các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan Nhà nớc, trong đó đại diện các
cơ quan Nhà nớc đợc ký hợp đồng dài hạn mang tính nguyên tắc, đại diện tổ
chức kinh tế quốc doanh ký HĐKT ngắn hạn cụ thể. Điều này thể hiện một cơ
chế quản lý chủ yếu theo chiến lệnh: chỉ huy trên xuống, báo cáo dới lên, lãi
nộp ngân sách, lỗ xin trên.
3
Lần đầu tiên khái niệm hợp đồng kinh tế đợc sử dụng trong bản điều lệ
này có thể coi là thời điểm ra đời của HĐKT ở nớc ta. Mặc dù có tên gọi điều lệ
tạm thời, nhng bản điều lệ này cũng đã đợc sử dụng trong 15 năm từ 1960 đến
1975, trong suốt thời gian đó chúng ta ở trong điều kiện chiến tranh, không tập

đồng kinh tế đợc ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay pháp nhân với cá
nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật và phải ký kết trong
phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, pháp lệnh còn qui định
những ngời làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ
nông dân, ng dân cá thể, các tổ chức và cá nhân nớc ngoài ở Việt Nam cũng có
thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp
nhân.
- Về hình thức: Hợp đồng kinh tế phải đợc ký kết bằng văn bản. Đó là
bản hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản có chữ ký của các
bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận nh công văn, đơn chào hàng, đơn đặt
hàng, giấy chấp nhận
Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ánh mối quan hệ giữa
kế hoạch với thị trờng. Hợp đồng kinh tế đợc ký kết dựa trên định hớng kế
hoạch của Nhà nớc, nhằm các việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn
vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế mà việc ký kết và thực hiện nó
phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nớc. Trong cơ
chế quản lý theo phơng pháp kế hoạch hoá tâp trung thì tính kế hoạch là đặc
tính số một của hợp đồng kinh tế.
Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp đồng kinh tế
và các loại hợp đồng khác nh Hợp đồng dân sự, Hợp đồng ngoại thơng, Hợp
đồng lao động
II. Ký kết hợp đồng kinh tế:
1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế:
5
Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những t tởng chỉ đạo, có tính
chất bắt buộc đối với các chủ thể khi khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Các nguyên tắc cơ bản đợc ghi nhận trong Điều 3 pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
a. Nguyên tắc tự nguyện:
Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện
trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt tới mục đích

Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ HĐKT
phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện
HĐKT. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết hợp đồng kinh tế trong trờng hợp
đợc một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh về tài sản.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện HĐKT và
việc bảo vệ trật quản lý kinh tế của Nhà nớc. Một hợp đồng kinh tế chỉ có thể
thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó không tráI pháp luật và các bên có khả
năng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
2. Căn cứ để ký hợp đồng kinh tế.
a. Định hớng kế hoạch của Nhà nớc, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực
kinh tế, kỹ thuật hiện hành.
Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng
kế hoạch và là công cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế hoạch của mỗi đơn
vị kinh tế đợc xây dựng căn cứ vào định hớng kế hoạch của Nhà nớc, do đó việc
ký kết các HĐKT cũng phải căn cứ vào định hớng kế hoạch của Nhà nớc. Ngoài
ra, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung
của HDDKT, khi ký kết hợp đồng các chủ thể cũng phải căn cứ vào các chính
sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nớc.
b. Nhu cầu thị trờng, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng:
Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, on lôn gắn
liền với sự vận động của thị trờng, của quan hệ cung cầu. Vì vậy, trong việc ký
kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị trờng
bao gồm các khả năng cung cấp hàng háo, dịch vụ và nhu cầu cần đáp ứng về
hàng hoá, dịch vụ của mình và của bạn hàng.
7
c. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động của các
chủ thể ký kết:
Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế là
những khả năng thực tế về tiền vốn, vật t, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà

Khi tiến hành ký kết HĐKT, mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng chỉ cần
cử một đại diện để ký vào HĐKT. Nếu là pháp nhân thì ngơừi ký kết hợp đồng
phải là ngời đợc bổ nhiệm hoặc đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký
kinh doanh theo qui định của pháp luật thì ngời ký hợp đồng phải là ngời đứng
tên trong giấy phép kinh doanh. Trong tất cả trờng hợp, hợp đồng kinh tế không
bắt buộc kế toán trởng phải cùng ký vào bản HĐKT, đây là điểm khác biệt so
với qui định trong điều lệ về chế độ HĐKT ban hành theo Nghị định 54/CP
ngày 10/3/1975.
Trong trờng hợp một bên là ngời làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ
nhân thì ngời ký kết hợp đồng kinh tế phải là ngời trực tiếp thực hiện công việc
trong hợp đồng. Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ng dân cá thể thì
đại diện ký HĐKT phải là chủ hộ.
Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp cho các
đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực hiện HĐKT lại vừa
ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân.
III. Phân tích những điều khoản của hợp đồng kinh tế.
Theo qui định tại điều 12 Pháp lệnh HĐKT thì nội dung của HĐKT bao
gồm những điều khoản cụ thể sau:
1. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế.
- Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên.
- Họ tên ngời đại diện, ngời đứng tên đăng ký kinh doanh.
2. Điều khoản đối tợng của hợp đồng.
Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì? công việc gi?
Đối tợng của hợp đồng tính bằng khối lợng, số lợng hoặc giá trị quy ớc
đã thoả thuận.
3. Điều khoản chất lợng.
9
Tức là sự qui định thể hiện những đặc điểm, tính cách, của đối tợng
hợp đồng, các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy cách, cách tính,
tính đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn của sản phẩm, hàng hoá hoặc những yêu

dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân
theo những qui định bắt buộc về chất lợng sản phẩm để đảm bảo an toàn cho
ngời tiêu dùng.
- Điều khoản thờng lệ: là những điều khoản đã đợc pháp luật ghi nhận,
nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi nh các bên đã mặc
nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những qui định đó, nếu các bên thoả
thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không đợc ghi trái với những điều đã qui
định đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thì những thoả thuận đó không có giá trị.
Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thờng lệ
của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của HĐKT không phụ thuộc vào các điều
khoản thờng lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai bên không
thoả thuận về những điều khoản thờng lệ thì HĐKT vẫn cứ hình thành và làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với
nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật qui định các bên có
thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc
không thoả thuận, nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên
phải có trách nhiệm thực hiện.
Theo pháp luật về HĐKT của nớc ta hiện nay thì những thoả thuận về
biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng ( cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo
lãnh tàI sản) là những điều khoản tuỳ nghi. Những điều khoản này chỉ trở
thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau.
Tóm lai: các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp
luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả
thuận đó không phảI là trái pháp luật. Pháp luật chỉ qui định những điều khoản
tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng, những điều
khoản tối thiểu đó là những điều khoản chủ yếu trong hợp đồng.
IV. Thủ tục ký kết hợp đồng.
11


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status