Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007 - 2010 - Pdf 13

Cơ chế phát triển sạch theo nghị định thư Kyôtô khả năng và triển vọng tham gia của Việt
Nam
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TRẦN THỊ NGUYỆT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2007 - 2010
Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG VÃN

các cam kết mở cửa thị trƣờng dịch vụ tài chính ngân hàng khi hội nhập sâu vào nền
kinh tế, trong khi đó năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
còn ở mức thấp. Các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và phát triển,
bắt kịp với nhịp độ hội nhập của thế giới thì không còn cách nào khác là phải khai
thác triệt để lợi thế và nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay là một trong bốn Ngân
hàng thƣơng mại quốc doanh lớn nhất của Việt Nam. Trong bối cảnh mới về hội
nhập, việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh, đánh giá toàn diện những
điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt nam là hết sức cấp thiết. Đề tài:
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007-2010” là vấn đề vừa có ý nghĩa
lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài
nghiên cứu đã công bố nhƣ: 2
- Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
- CIEM và UNDP (2004), Nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia, NXB
Giao thông vận tải, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương
mại trong xu thế hội nhập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Thanh Bình, Phạm Huy Hùng (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, Công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam.
Trong các nghiên cứu trên, vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh

cạnh tranh cho giai đoạn hậu WTO 2007-2010.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa vào phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và quan
điểm, chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển các Ngân hàng thƣơng mại
trong giai đoạn hội nhập.
Đề tài này cũng sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, kết hợp phƣơng
pháp duy vật lịch sử, phƣơng pháp logic và lịch sử, khái quát hóa và cụ thể hóa.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp khoa học khác nhƣ phƣơng pháp
thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp những tài liệu
thu thập để đánh giá tình hình hiện tại và dự báo tƣơng lai.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, danh mục từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng:
- Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO;
- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO;
- Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực canh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập 2007-2010.
4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP HẬU WTO

1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI (NHTM)
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM
1.1.1.1. Cạnh tranh là gì?

có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”[44, tr. 10]
Nhƣ vậy, Michael Porter đã tiếp cận khái niệm NLCT ở khía cạnh động. Để
cạnh tranh thành công, doanh nghiệp phải luôn thay đổi để có sản phẩm mới, quá
trình sản xuất mới, thị trƣờng mới. Ông cũng đã nhấn mạnh NLCT còn bao gồm
việc doanh nghiệp phải duy trì và liên tục tăng cƣờng lợi thế cạnh tranh của mình.
1.1.1.3. NLCT của NHTM nói riêng
a. Khái niệm và những đặc điểm chung của NHTM
Ra đời từ rất sớm, NHTM đƣợc coi là mạch máu lƣu thông, là chất dầu bôi
trơn cho cỗ máy nền kinh tế thị trƣờng. Nhà kinh tế học Peter S.Rose cho rằng:
“NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế” [43, tr. 7].
Tại điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và
mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các
loại hình ngân hàng khác. [28, tr. 12]
Nhƣ vậy, theo định nghĩa nào thì NHTM cũng đƣợc hiểu một loại hình
doanh nghiệp đặc biệt vì hàng hoá sử dụng trong kinh doanh là tiền tệ. NHTM đóng
vai trò tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Hoạt
động cơ bản và thƣờng xuyên của NHTM là nhận tiền gửi của khách hàng (huy
động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm 6
vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn). Theo xu hƣớng
chung hiện nay, các NHTM đã mở rộng nhiều loại hình nghiệp vụ hiện đại rất
phong phú và đa dạng nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của xã hội.

1.1.2.1. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng
vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở mức
vốn tự có, chất lƣợng tài sản, khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời trong hoạt
động kinh doanh.
a. Mức vốn tự có (Capital)
Yếu tố đầu tiên đƣợc nhắc đến nhƣ là điều kiện tiên quyết cho việc thành lập
một NHTM chính là vốn tự có. Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam, “vốn
tự có là giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của
tổ chức tín dụng theo quy định của NHNN. Vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ
lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”[28, tr. 3]
Với định nghĩa nhƣ vậy, vốn tự có thƣờng có chức năng bảo vệ NHTM, giúp
NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; tạo
niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của
ngân hàng; cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trƣởng và phát triển các hình
thức dịch vụ mới, chƣơng trình và trang thiết bị mới; và đảm bảo duy trì ổn định lâu
dài của NHTM. Vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, trong đó:
Vốn cấp 1 (vốn cơ sở - core capital) bao gồm giá trị ghi sổ của cổ phiếu
thƣờng, cổ phiếu ƣu đãi chƣa đến hạn, lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty
con, tài sản vô hình xác định không tính tới danh tiếng của công ty.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung – supplemental capital) bao gồm các khoản mục dự
phòng tổn thất từ cho vay và cho thuê, các công cụ vốn nợ thứ cấp, các khoản nợ
cho phép chuyển đổi,v.v
Các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trƣờng tài chính thƣờng đòi hỏi vốn
ngân hàng phải phát triển tƣơng ứng với sự tăng trƣởng của danh mục cho vay và
những tài sản rủi ro khác. Tiêu chuẩn quốc tế quy định ngân hàng không đƣợc cho
vay quá 15% vốn và thặng dƣ vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản vay
đƣợc đảm bảo an toàn thì giới hạn này là 25%.

1
Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro bao gồm: tài sản theo tỷ lệ rủi ro trong bảng cân đối kế toán và các
khoản mục nằm ngoài bảng cân đối kế toán theo tỷ lệ rủi ro. Các tỷ lệ rủi ro này đƣợc quy định cho từng
hạng mục tài sản. Khi xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM ngƣời ta không căn cứ vào tổng tài sản
của ngân hàng mà căn cứ vào tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
2
Đây là một Uỷ ban đƣợc thành lập bởi các nhà điều hành các ngân hàng trung ƣơng tại 10 Quốc gia vào
năm 1974 nhằm cải thiện các hƣớng dẫn giám sát mà các ngân hàng trung ƣơng áp dụng đối với các ngân
hàng bán buôn và bán lẻ. Uỷ ban đƣa ra các hƣớng dẫn giám sát ngân hàng đối với các nƣớc thành viên và
không thành viên và hỗ trợ các chính quyền nhằm thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban.
3
Nợ xấu là những khoản nợ không còn khả năng trả hoặc có nguy cơ không trả đƣợc. Tại Việt Nam, theo
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nƣớc, các khoản nợ đƣợc
phân loại là Nhóm 1-Nợ đủ tiêu chuẩn, Nhóm 2-Nợ cần chú ý (Nợ quá hạn dƣới 90 ngày), Nhóm 3-Nợ dƣới
tiêu chuẩn (Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày), Nhóm 4- Nợ nghi ngờ (Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày) và Nợ
có khả năng mất vốn (Nợ quá hạn từ trên 360 ngày). Nợ nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 đƣợc coi là nợ xấu.
9
Khả năng thanh khoản của một ngân hàng thể hiện qua chỉ tiêu định lƣợng:
Chỉ tiêu thanh khoản (cho biết tỷ trọng tài sản thanh khoản (dƣới 1 năm) trên tổng
tài sản), và chỉ tiêu định tính về năng lực quản lý thanh khoản của NHTM và đặc
biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng đó.
Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu thanh khoản đạt 30% đƣợc coi là an toàn, đảm
bảo cho ngân hàng có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với
số lƣợng lớn.
d. Khả năng sinh lời (Earnings)
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động của một ngân hàng đồng thời

(Earning per share – EPS), tỷ lệ tài sản sinh lời…Việc đánh giá hoạt động của ngân
hàng có mức độ hiệu quả nhƣ thế nào cần tổng hợp của nhiều chỉ tiêu. Vai trò của
các chỉ tiêu này có thể đƣợc đánh giá khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và hoàn
cảnh cụ thể của công việc nghiên cứu phân tích.
Nhƣ vậy, một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM luôn duy trì
đƣợc hoạt động bình thƣờng và phát triển một cách ổn định, bền vững trong mọi
điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nƣớc và trên thế giới. NHTM có khả
năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh
tế, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nƣớc và thế giới. NHTM
còn phải bảo đảm đƣợc sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không
xảy ra những đổ vỡ hay phá sản.
Năng lực tài chính của một NHTM càng đƣợc đảm bảo thì mức độ rủi ro
trong hoạt động ngân hàng càng thấp và NLCT của NHTM trên thị trƣờng càng cao.
Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng đƣợc nâng cao và hoàn
thiện, đó là điều kiện không thể thiếu đƣợc của bất cứ một NHTM nào nếu muốn
tồn tại trong bối cảnh thị trƣờng cạnh tranh gay gắt nhƣ hiện nay.
1.1.2.2. Năng lực phi tài chính
Bên cạnh năng lực tài chính nói trên, NLCT của một NHTM còn đƣợc đánh giá
ở khía cạnh năng lực phi tài chính, thể hiện ở năm chỉ tiêu cơ bản sau:
a. Năng lực cung ứng dịch vụ ngân hàng
Theo nhà kinh tế học Peter S. Rose, “Thành công của mỗi ngân hàng hoàn
toàn phụ thuộc vào khả năng xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, 11
cung cấp các dịch vụ đó một cách hiệu quả và bán chúng theo mức giá cạnh
tranh”[43, tr. 78].
Do nét nổi bật của ngành ngân hàng là các dịch vụ hầu nhƣ không có sự khác
biệt lớn nên các NHTM có thể phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ
bằng chất lƣợng, bằng công dụng cơ bản của dịch vụ mà còn bằng sự độc đáo, tiện

viên ngân hàng đƣợc xem là đại diện hình ảnh của ngân hàng trƣớc khách hàng.
NLCT về nhân lực của một ngân hàng thể hiện ở những yếu tố nhƣ: chính
sách tuyển dụng, cơ chế thù lao, quá trình đào tạo, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm
trong ngành, đạo đức nghề nghiệp…
Quản trị điều hành là những cơ chế, quy định thông qua đó NHTM đƣợc điều
hành và kiểm soát. Cơ cấu quản trị điều hành xác định quyền hạn và trách nhiệm
giữa những thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm các Cổ đông, Hội đồng
quản trị, Ban điều hành, Ban kiểm soát và những ngƣời liên quan khác của ngân
hàng. Đồng thời, quản trị điều hành cũng thiết lập các nguyên tắc và quy trình, thủ
tục ra quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức
vụ, giảm thiểu những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. Cùng với sự phát triển
nhanh chóng của khối tài chính ngân hàng cả về số lƣợng và quy mô, đặc biệt là sự
hình thành các tập đoàn ngân hàng tài chính lớn thì quản trị điều hành, công cụ quan
trọng giúp tách biệt giữa sở hữu và quản lý, đƣợc xem là một yếu tố rất quan trọng
của NLCT.
Đánh giá năng lực quản trị điều hành của NHTM thƣờng thông qua các chỉ
tiêu: mô hình và cơ chế vận hành một ngân hàng hiện đại áp dụng các thông lệ quốc
tế về quản trị doanh nghiệp; trình độ của bộ máy ban lãnh đạo, của lực lƣợng chủ
yếu, lao động có tay nghề cao; khả năng thích ứng của cơ chế điều hành trƣớc diễn
biến của thị trƣờng,…
d. Năng lực quản trị rủi ro
Có thể khẳng định rằng, hiệu quả kinh doanh của một NHTM phụ thuộc rất
lớn vào năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng đó. Xét một cách tổng thể, rủi ro đối
với NHTM thƣờng tập trung ở rủi ro tín dụng, rủi ro thị trƣờng và rủi ro tác nghiệp.
Quản trị rủi ro phải đƣợc thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh
mục rủi ro. Mỗi NHTM, muốn có NLCT cao, phải xây dựng cho mình mức rủi ro mà 13
NHTM có thể chấp nhận đƣợc (risk appetite level) trong các hoạt động kinh doanh.

14
NLCT nội tại của các NHTM trên giác độ vi mô nhƣ nêu trên, môi trƣờng vĩ mô và
môi trƣờng tác nghiệp cũng có ảnh hƣởng rất lớn tới NLCT của một NHTM theo
trình bày ở phần dƣới đây.
1.1.3. Các yếu tố môi trƣờng kinh doanh ảnh hƣởng tới NLCT của NHTM
1.1.3.1. Nhóm yếu tố thuộc môi trƣờng vĩ mô
a. Sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước
Nếu coi hệ thống ngân hàng là một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là
nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không, có đủ máu để lƣu thông
và chất lƣợng máu cũng nhƣ hệ thống mao mạch có tốt hay không lại phụ thuộc vào
sức khoẻ của cơ thể sống ấy. Ngân hàng cũng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi
ro. Mỗi một bất lợi của môi trƣờng kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hƣởng đến hoạt
động bình thƣờng của một ngân hàng. Một nƣớc có nền kinh tế phát triển ổn định,
tốc độ tăng trƣởng cao, các chỉ số về lạm phát, lãi suất và tỷ giá phát triển ổn định,
sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tích cực sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho sự
phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngƣợc lại, sự bất ổn về kinh tế có thể tạo
ra sự dè dặt, giảm sút của những nỗ lực đầu tƣ của các doanh nghiệp nói chung và
các NHTM nói riêng.
Bên cạnh tác động của nền kinh tế trong nƣớc, tình hình kinh tế toàn cầu,
kinh tế khu vực cũng ảnh hƣởng rất lớn đến lĩnh vực ngân hàng nhƣ là nghiệp vụ
mua bán ngoại tệ, đầu tƣ tài chính và các giấy tờ có giá trên thị trƣờng tài chính
quốc tế hoặc trực tiếp đi vay/cho vay nƣớc ngoài…
b. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ trên thế giới ngày nay đƣợc phát triển rất nhanh
chóng và ngày càng hiện đại. Chính sự phát triển kỳ diệu của khoa học và công
nghệ đã tác động mạnh mẽ tới nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành ngân hàng.
Thực tế cho thấy sự phát triển của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy hiện đại hoá
dịch vụ ngân hàng, tạo nhiều tiện ích trong các giao dịch ngân hàng cung cấp cho
khách hàng, thu hút nhiều khách hàng đến với ngân hàng hơn. Đó là hệ thống mạng
internet, mạng thanh toán SWIFT, quản trị thông tin nội bộ, các công nghệ về thẻ

Một trong những thách thức của các ngân hàng hiện nay là không chỉ cạnh
tranh trong một quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng toàn cầu và các 16
định chế tài chính phi ngân hàng (các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công
ty tài chính, các loại quỹ đầu tƣ…) ngay tại thị trƣờng nội địa. Do đó, khi nghiên
cứu mức độ cạnh tranh trong ngành ngân hàng, cần phải xem xét tầm quan trọng
chiến lƣợc của hoạt động kinh doanh hiện tại đối với toàn bộ hoạt động và mục tiêu
mà đối thủ cạnh tranh đặt ra, đặc biệt là tiềm lực của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
trên thị trƣờng, nhƣ khả năng kinh doanh, nguồn lực cạnh tranh của họ, trạng thái
tài chính và thị phần hiện tại.
b. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn trong lĩnh vực ngân hàng chính là những định chế
tài chính chƣa tham gia vào ngành nhƣng rất có thể sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh
trực tiếp của các ngân hàng trong tƣơng lai. Việc đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn này có
gia nhập vào ngành hay không cũng nhƣ việc tham gia đó nhanh hay chậm phụ
thuộc vào các rào cản gia nhập nhƣ vốn đầu tƣ, kinh nghiệm, các mối quan hệ, uy
tín và khả năng phản ứng trả đũa của các đối thủ cạnh tranh sẵn có trong ngành đối
với những đối thủ mới gia nhập. Một điều hiển nhiên là các rào cản gia nhập có thể
thay đổi cả về số lƣợng và tính chất theo chiều hƣớng có lợi cho đối thủ cạnh tranh
hiện tại và bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng hoặc ngƣợc lại.
c. Sản phẩm thay thế
Đối với ngành ngân hàng, các sản phẩm thay thế hiện nay chƣa nhiều, nếu có
chăng thì vẫn chƣa thay thế đƣợc một cách toàn diện các chức năng của ngân hàng.
Tuy nhiên, các sản phẩm này cũng có thể tạo nên một khả năng cạnh tranh mạnh,
chiếm dần thị trƣờng của ngân hàng. Ví dụ, thị trƣờng chứng khoán với chức năng
cầu nối giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tƣ sẽ làm suy giảm ở cả hai thị trƣờng
quan trọng của ngân hàng là thị trƣờng tiền gửi và thị trƣờng tín dụng. Hay nhƣ các
công ty bảo hiểm, cho thuê tài chính, tiết kiệm bƣu điện… có thể tấn công vào thị

Ngân hàng Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO, từ đó đặt ra vấn đề cấp bách phải
năng cao NLCT cho các NHTM tại Việt Nam.
18
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP
HẬU WTO
1.2.1 Khái quát về Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) và hệ thống Ngân
hàng Việt Nam
1.2.1.1 Khái quát về Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO)
WTO là tổ chức thƣơng mại quy mô toàn cầu, hiện có 150 thành viên (gồm
các quốc gia và vùng lãnh thổ), đƣợc thành lập ngày 1/1/1995. Tiền thân của tổ
chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại (GATT), đƣợc 23 quốc
gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cƣờng giao lƣu thƣơng mại giữa các quốc gia
thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nƣớc thành viên.
WTO là một tổ chức bao gồm các cơ quan có thẩm quyền nhƣ: Hội nghị Bộ
trƣởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp
việc cho các cơ quan này là Ban Thƣ ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng
thƣ ký. Trụ sở WTO đặt tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ.
a. Chức năng và nguyên tắc của WTO
WTO có 4 chức năng cơ bản: (i) Quản lý giám sát và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thực thi các hiệp định của WTO; (ii) Thúc đẩy tự do hoá thƣơng mại thông
qua các cuộc đàm phán đa phƣơng về tự do hoá thƣơng mại; (iii) Giải quyết tranh
chấp thƣơng mại giữa các thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy
định và (iv) Hỗ trợ kỹ thuật cho các nƣớc đang phát triển thông qua các chƣơng
trình tƣ vấn, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
WTO hoạt động dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: (i) Không phân biệt đối xử,
đây là nguyên tắc quan trọng nhất, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc

áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng. Ít nhất mỗi năm một lần, các nƣớc thành
viên có nghĩa vụ thông báo và cung cấp cho Hội đồng Thƣơng mại Dịch vụ
thông tin liên quan về các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành và việc sửa
đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật ngân hàng.
o Đãi ngộ quốc gia (NT): các nƣớc thành viên có nghĩa vụ đối xử nhƣ nhau
giữa các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài. Cụ thể trong lĩnh vực dịch 20
vụ ngân hàng, nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng nƣớc
ngoài đƣợc hƣởng những ƣu đãi ngang bằng với nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng và dịch vụ ngân hàng của nƣớc thành viên, hoặc các tổ chức tín dụng
nƣớc ngoài đƣợc phép hoạt động tại nƣớc thành viên sẽ không bị đối xử với
các tổ chức tín dụng tại nƣớc thành viên đó. Thí dụ, các NHTM trong nƣớc
đƣợc phép đặt máy ATM ngoài trụ sở chính thì các chi nhánh ngân hàng
nƣớc ngoài cũng đƣợc phép làm nhƣ vậy.
1.2.1.2. Khái quát chung về hệ thống Ngân hàng Việt Nam trƣớc xu thế hội nhập
Từ khi Ngân hàng quốc gia Việt Nam, nay là NHNN Việt Nam (NHNN),
đƣợc thành lập ngày 6/5/1951 theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hệ thống
ngân hàng Việt Nam đƣợc tổ chức theo mô hình một cấp ở miền Bắc trƣớc năm
1975 và cả nƣớc từ năm 1975 tới 1990. Mô hình này đƣợc rập khuôn theo Liên Xô
và các nƣớc XHCN cũ, theo đó chỉ tồn tại NHNN do Nhà nƣớc độc quyền nắm giữ
- vừa làm chức năng quản lý và phát hành tiền nhƣ một ngân hàng trung ƣơng, vừa
trực tiếp kinh doanh tiền tệ tín dụng nhƣ một NHTM.
Từ năm 1988, thực hiện Nghị định 53/HĐBT, các ngân hàng chuyên doanh
đƣợc thành lập, tách khỏi NHNN. Đến tháng 5/1990, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nƣớc và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ra đời, chính
thức đánh dấu sự hình thành của hệ thống ngân hàng hai cấp. Theo đó, NHNN là cơ
quan quản lý về tiền tệ và tín dụng, là ngân hàng phát hành, đồng thời là ngân hàng
của các ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt

nhằm thu hút các ngân hàng lớn vào hoạt động tại thị trƣờng Việt Nam. Cam kết
này đã đƣợc thể chế hoá trong Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ban hành ngày
28/2/2006, cụ thể là: Để mở một chi nhánh của NHTM nƣớc ngoài tại Việt Nam,
ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trƣớc thời
điểm xin mở chi nhánh, trong khi đó, mức yêu cầu đối với việc thành lập ngân
hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài là 10 tỷ đô la Mỹ; đối
với mở công ty tài chính 100% vốn nƣớc ngoài, công ty tài chính liên doanh,
công ty cho thuê tài chính 100% vốn nƣớc ngoài và công ty cho thuê tài chính 22
liên doanh, tổ chức tín dụng nƣớc ngoài phải có tổng tài sản hơn 10 tỷ đô la Mỹ
vào cuối năm trƣớc thời điểm xin phép mở.
o Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng: Các tổ chức tín dụng nƣớc
ngoài hoạt động tại Việt Nam đƣợc cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân
hàng nhƣ cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công
cụ thị trƣờng tiền tệ, các công cụ phát sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung
cấp dịch vụ thanh toán, tƣ vấn và thông tin tài chính. Riêng về hoạt động nhận
tiền gửi, các chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đƣợc nhận tiền gửi VND không giới
hạn từ các pháp nhân, và lộ trình huy động tiền gửi từ các thể nhân Việt Nam sẽ
đƣợc nới lỏng trong vòng 5 năm từ ngày 1/1/2007 ở mức tối đa 650% vốn pháp
định của ngân hàng, tiến tới đối xử quốc gia đầy đủ vào năm 2011. Các chi nhánh
ngân hàng nƣớc ngoài không đƣợc phép mở các điểm giao dịch ngoài trụ sở chi
nhánh nhƣng đƣợc phép lắp đặt và vận hành các máy rút tiền tự động (ATM) và
đƣợc phát hành thẻ tín dụng nhƣ các ngân hàng trong nƣớc.
o Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần: tổng số cổ phần đƣợc phép nắm
giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nƣớc ngoài tại mỗi NHTM cổ phần của Việt
Nam không đƣợc vƣợt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi luật pháp của
Việt Nam có qui định khác hoặc đƣợc sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam.

xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia về lắp đặt và vận hành các máy ATM.
Nhƣ vậy, so với các cam kết trong Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
mức cam kết trong WTO là hợp lý và cân bằng với một lộ trình thời gian thích hợp
cho quá trình chuyển đổi và nâng cao NLCT của các ngân hàng trong nƣớc. Một số
cam kết đƣợc giữ nguyên nhƣ trong Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa kỳ, chẳng
hạn nhƣ không cho phép chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài mở điểm giao dịch ngoài
trụ sở chi nhánh, hạn chế các tổ chức tín dụng nƣớc ngoài mua cổ phần của các
NHTM quốc doanh cổ phần hoá, chƣa tự do hoá các giao dịch vốn… Bên cạnh đó,
Việt Nam bổ sung thêm một số qui định để tăng thêm công cụ quản lý đối với thị
trƣờng ngân hàng nhƣ qui định về tổng tài sản Có của các tổ chức tín dụng nƣớc
ngoài muốn thành lập và hoạt động tại Việt Nam, quy định về việc góp vốn dƣới hình
thức mua cổ phần Một số hạn chế đƣợc nới lỏng nhƣng phù hợp với thực trạng phát 24
triển của ngành và khuôn khổ pháp lý hiện hành nhƣ cho phép các ngân hàng nƣớc
ngoài thành lập ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài, cho phép các chi nhánh ngân hàng
nƣớc ngoài đƣợc huy động tiền gửi bằng Đồng Việt Nam, cho phép tổ chức tín dụng
nƣớc ngoài đƣợc phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia.
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao NLCT của hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO
Trên cơ sở những cam kết đặt ra trong Lộ trình mở cửa hệ thống ngân hàng
Việt Nam nhƣ trên, các ngân hàng trong nƣớc không còn cách nào khác là phải tự
“cải tổ” mình, tìm biện pháp nhằm nâng cao NLCT của mình trong bối cảnh mới.
Có thể minh hoạ điều này qua hình vẽ 1.1 dƣới đây:
Bảng 1.1: Tổng hợp thị phần của các NHTM giai đoạn 2001-2006
Đơn vị: %

2001
2002

100
100
100
100
Thị phần huy động vốn
NHTM Nhà nước
79,0
79,9
78,6
76,9
73,2
71,0
NHTM Cổ phần
9,3
9,5
10,8
11,6
15,1
18,8
Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài&Ngân hàng liên doanh
10,5
8,8
8,9
9,6
9,5
9,3
Tổng cộng
100
100


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status