Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản - Kinh nghiệm đối với Việt Namx - Pdf 13

Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản -
Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là một trong những hoạt
động quan trọng hàng đầu của hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Nhật
Bản. Với mục đích góp phần giúp người nông dân nước ta nâng cao
thu nhập, ổn định sản xuất nông nghiệp thông qua việc nâng cao hiệu
quả tiêu thụ nông sản, nghiên cứu này xin giới thiệu hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của HTX nông nghiệp Nhật Bản, từ đó sẽ rút ra một số
kinh nghiệm đối với Việt Nam.

Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của HTX nông nghiệp Nhật Bản
Vai trò của HTX trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm
(1) Xác định mức giá để bảo đảm tái sản xuất và sự bình ổn giá đối với cả
2 đối tượng là người sản xuất và người tiêu dùng, được thực hiện thông
qua việc điều tiết cung (xuất hàng theo kế hoạch, điều chỉnh việc bảo quản
và lưu kho, sản xuất dựa trên kế hoạch) và điều tiết cầu (phát triển sản
phẩm mới, quảng cáo mở rộng tiêu thụ).
(2) Kiểm soát và cắt giảm chi phí dành cho lưu thông hàng hoá dựa trên
việc hợp lý hoá lưu thông. Phần chi phí đã tiết kiệm sẽ được hoàn trả lại
cho chính các xã viên tham gia tiêu thụ và đó là một vai trò quan trọng của
hoạt động hợp tác tiêu thụ sản phẩm.
(3) Cung cấp lương thực, thực phẩm chất lượng một cách ổn định cho
người tiêu dùng là một trong những nhiệm vụ của người sản xuất. Trên cơ
1
sở nâng cao chất lượng sản phẩm, nông dân có thể nâng mức giá thành
sản phẩm lên cao hơn trước, và từ đó sẽ đem lại thu nhập tốt hơn.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ngày càng có vị trí quan trọng
Nền kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ vào giữa
những năm 1960 và chững lại vào khoảng giữa những năm 1980. Tất cả
các dịch vụ của HTX nông nghiệp đều tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt dịch
vụ tín dụng và dịch vụ bảo hiểm.

đó. Những phương thức này chủ yếu hình thành vào thời kỳ lạm phát
những năm 1950, khi HTX nông nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
trong vấn đề tổ chức quản lý.
2
Hệ thống bán hàng ủy thác toàn bộ cho HTX trong việc tiêu thụ, tránh thất
thoát theo phương thức HTX mua rồi bán. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm
bởi HTX thực chất không phải theo phương thức mua nông sản từ người
sản xuất rồi bán cho khách hàng, mà là bán sản phẩm nông sản do người
sản xuất uỷ thác. Người sản xuất sẽ ủy thác cho HTX những điều kiện bán
hàng như thời gian bán hàng, đối tượng khách hàng, lượng hàng bán ra,
giá cả, và những điều kiện khác. HTX không thể bán được với điều kiện có
lợi nhất nếu mỗi sản phẩm lại có những điều kiện riêng.
Phương thức hạch toán bình quân sẽ khắc phục sự mất công bằng trong
trường hợp bán hàng ủy thác. Trên thực tế giá hàng hoá thay đổi rất nhiều
theo từng ngày, và tuỳ thuộc vào từng thị trường mà HTX bán nông sản do
xã viên đã uỷ thác cho HTX. Vì vậy HTX phải giữ sự công bằng cho những
xã viên đã chuyển hàng tới tại các thời điểm khác nhau theo yêu cầu của
HTX theo cách tính giá bình quân cho hàng hoá bán ra ở các mức giá khác
nhau.
Phương thức tính chi phí theo thực phí được thực hiện theo nguyên tắc:
HTX khi tiêu thụ nông sản thì không tính theo cách cộng lợi nhuận vào giá
mua mà phải tính theo cách là trừ đi những khoản chi phí cho bán hàng
trên tổng doanh thu. Những khoản chi phí cho bán hàng gồm: chi phí nhân
công, chi phí quản lý, chi phí vận chuyển, chi phí khấu hao… Các loại chi
phí được tính toán dựa trên chi phí thực tế, hay ta gọi đó là như một quy
tắc về thực phí.
Tận dụng triệt để dịch vụ của HTX là biện pháp mang tính khuyến khích,
mục tiêu của hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong HTX là thu gom được
lượng hàng nhiều nhất, nhằm phát triển kinh doanh, vì vậy việc tận dụng
triệt để tổ chức HTX trong kinh doanh tất cả các mặt hàng nông sản là hoạt

chất lượng đất trồng, thuỷ lợi…
Thứ hai, cần phải đặt ra các quy định trong những điều kiện nào nông sản
của các hộ nông nghiệp trở thành hàng hóa bán trên thị trường, việc phải
vượt qua một quy mô nhất định có phải là một điều kiện không?
Thứ ba, sự phù hợp về kinh nghiệm và sở thích. Có thể nói tính thích hợp
đối với từng hộ nông dân hoặc địa phương là một điều kiện trong sản xuất.
Kinh nghiệm cũng cần được coi là một điều kiện cần thiết. Việc phát triển
những nghành nghề mới đều phải đặt giả thiết là người sản xuất không có
kinh nghiệm, vì vậy nếu HTX không vận động nông dân thử nghiệm thì
không thể phát triển ngành nghề mới và sản xuất các nông sản mới được.
ý thích (thích hoặc không thích) của từng hộ nông dân cũng vậy. Cũng có
thể có hộ nông dân thích trồng lúa nước, có hộ nông dân không thích chăn
nuôi gia cầm nhưng việc thử nghiệm là cần thiết.
Thứ tư, HTX cần quan tâm đến các vấn đề về thị trường: Về quy mô của
thị trường. HTX cũng cần phải suy nghĩ với tầm nhìn xa về nhu cầu trong
tương lai. Các HTX nông nghiệp có thể hướng dẫn xã viên bằng cách giới
thiệu sản phẩm mới hoặc tăng sản lượng nông sản có thị trường lớn.
Thứ năm, chỉ đạo trong nông nghiệp và HTX với các cơ quan nhà nước.
Để giải quyết được các vấn đề nêu trên thì khả năng chỉ đạo trong nông
nghiệp của HTX và sự liên kết chặt chẽ giữa HTX với cơ quan chức năng
phụ trách về chính sách nông nghiệp của địa phương là hết sức quan
trọng. Nền tảng là sự thay đổi của việc tiêu thụ sản phẩm của người tiêu
dùng.
Tóm lại, trong các hoạt động phục vụ sản xuất, HTX nông nghiệp Nhật Bản
không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nông dân như giống, phân
4
bón, hoá chất nông nghiệp, thức ăn, trang thiết bị sản xuất và kỹ thuật cho
sản xuất trồng trọt và chăn nuôi gia súc... mà HTX còn giúp người nông
dân thu gom, bảo quản, tiêu thụ hầu hết các sản phẩm nông nghiệp dựa
vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status