Nghiên cứu phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh ở việt nam - Pdf 13

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRUNG TÂM HỖ TRỢ ĐÁNH GIÁ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BÁO CÁO TỔNG KẾT
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ:

NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP, QUY TRÌNH VÀ TIÊU CHÍ
ĐÁNH GIÁ LỰA CHỌN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NHÓM
NGHIÊN CỨU MẠNH Ở VIỆT NAM
Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Xuân Thảo


LỜI CẢM ƠN

Đề tài "Nghiên cứu phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọn và
phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh ở Việt Nam" đã được hoàn thành với sự tài trợ
của Bộ Khoa học và Công nghệ cùng với sự trợ giúp, hợp tác của nhiều đơn vị và cá
nhân.
Nhóm thực hiện đề tài xin cảm ơn tới các nghiên cứu viên, kế toán và nhân viên
hành chính của Trung tâm Hỗ trợ đánh giá khoa học và công nghệ đã tham gia đóng
góp ý kiến, hỗ trợ mọi hoạt động liên quan trong khi chúng tôi thực hiện đề tài. Chúng
tôi đặc biệt biết ơn TS. Stefan Arnold – Chuyên gia tình nguyện CHLB Đức tại Trung
tâm và PGS. TS. Hoàng Nam Nhật - Trường Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội đã
luôn theo sát và đóng góp ý kiến bổ ích cho các hoạt động và kết quả nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học của một số viện nghiên cứu, trường
đại học ở Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh
đã cổ vũ và cung cấp dữ liệu để cuộc
khảo sát về “thực trạng của các nhóm nghiên cứu trong các tổ chức nghiên cứu ở Việt
Nam” thành công, đóng góp vào việc đạt được các mục tiêu của đề tài.
Chúng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đến một số nhà khoa học (của các trường thành
viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, một số Viện
nghiên c
ứu thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và của một số đơn vị nghiên
cứu khác) đã nhiệt tình tham gia vào các hoạt động đánh giá, tư vấn và đóng góp ý
kiến bình luận quí báu và bổ ích để chúng tôi hoàn thành tốt các nội dung của đề tài.
Nhóm thực hiện đề tài cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các đồng chí
Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đã trực tiếp chỉ đạo và hỗ trợ chúng tôi thự
c hiện
nghiên cứu này. 3

1.1. Phương pháp đánh giá 46
1.2. Quy trình đánh giá 46
2. Tiêu chí đánh giá 48
2.1. Tiêu chí đánh giá tuyển chọn 48

4
2.2. Tiêu chí đánh giá giữa kỳ 60
2.3. Tiêu chí đánh giá kết thúc một chu trình đầu tư (1 project) 64
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 69
1. Kết luận 69
2. Kiến nghị 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………… 74
A. Các phụ lục liên quan đến việc khảo sát hiện trạng các nhóm nghiên
cứu và đánh giá thử một số nhóm 74
Phụ l
ục 1a. Danh sách các nhóm nghiên cứu được khảo sát 74
Phụ lục 1b. Kết quả khảo sát hiện trạng các nhóm nghiên cứu trong các tổ
chức nghiên cứu ở Việt Nam 84
Phụ lục 2a. Tiêu chí và các chỉ số đánh giá (hiện trạng) nhóm nghiên cứu
các lĩnh vực KHTN, KHXH&NV và KHKT-CN: 103
Phụ lục 2b. Danh sách các nhóm nghiên cứu được đánh giá thử và kết quả
đánh giá (được nêu ở mục 1.2, chương 1) 108
Phụ lục 2c. Kết quả
đánh giá thử một số nhóm nghiên cứu 109
B. Các phụ lục liên quan đến việc đánh giá tuyển chọn các nhiệm vụ
nghiên cứu nhằm phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh 111
Phụ lục 3a. Phiếu nhận xét đánh giá tuyển chọn nhóm nghiên cứu mạnh
bước 1 - Lựa chọn ý tưởng khoa học và trưởng nhóm nghiên cứu
các lĩnh vực KHTN, KHXH&NV và KHKT-CN 111

Phụ lục 6e. Mẫu đề cương kế hoạch nghiên cứu giai đoạn sau – Đệ trình vào
giữa kỳ 221
D. Các phụ lục dùng trong đánh giá kết thúc một chu trình đầu tư nhằm
phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh 232
Phụ lục 7a. Phiế
u nhận xét đánh giá kết thúc một chu trình đầu tư cho các
nhóm nghiên cứu mạnh lĩnh vực KHTN, KHXH&NV và KHKT-
CN 232
Phụ lục 7b. Phiếu tổng hợp kết quả đánh giá kết thúc một chu trình đầu tư
cho các nhóm nghiên cứu mạnh 246

6
TÓM TẮT
Đề tài “Nghiên cứu phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát
triển các nhóm nghiên cứu mạnh ở Việt Nam” đã được thực hiện với mục tiêu là đề
xuất được phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, áp dụng triển khai thực hiện nội dung
“hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trình độ cao, đủ sức tổ chức nghiên
cứu và giải quyết những hoạt động khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia ở trình
độ quốc tế” trong quyết định số 67/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Từ
nghiên cứu này, chúng tôi cũng đề xuất được một số nội dung phục vụ triển khai đề án
“trọng dụng nhân tài khoa học và công nghệ”.
Nghiên cứu này được thực hiện bằng cách kết hợp cả
phương pháp định tính và
định lượng, sử dụng các kỹ thuật tổng hợp phân tích thông tin, dữ liệu và lấy ý kiến
chuyên gia. Các nội dung nghiên cứu chính được thực hiện bao gồm: học tập kinh
nghiệm thành công đối với việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh của một số nước
trên thế giới; tìm hiểu hiện trạng các nhóm nghiên cứu trong các tổ chức nghiên cứu ở
nước ta; và đề xuất phương pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá l
ựa chọn và phát triển

c và chưa thực sự gắn kết với quả nghiên cứu, việc giành được tài trợ từ các
nguồn khác là rất ít.
- Mức độ đáp ứng về điều kiện và môi trường làm việc, nhất là về cơ sở vật chất,
trang thiết bị và thông tin phục vụ nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu hầu hết
là ở mức thấp và thậm chí là rất thấp đối với các tổ ch
ức nghiên cứu ở Đà Nẵng.
Các phòng thí nghiệm được trang bị các trang thiết bị hiện đại và đắt tiền gần như
không có “tính mở” để các nhóm nghiên cứu bên ngoài tiếp cận.
Qua nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của một số nước trong việc nuôi dưỡng và
phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, (hay còn gọi là các trung tâm xuất sắc) chúng ta
có thể thấy rõ muốn phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh thành công thì cần đảm bảo
các điề
u kiện cơ bản sau: quản lý hiệu quả; đội ngũ cán bộ phù hợp; cam kết hỗ trợ của
các tổ chức; phân bổ hợp lý; sử dụng kinh phí hiệu quả; xác định chiến lược rõ ràng.
Và đồng thời, chúng ta cũng nhận thức rõ nhu cầu bức thiết của việc nuôi dưỡng và
phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh ở Việt Nam là để đáp ứng: (1) việc nâng cao
năng lực về KH&CN, theo k
ịp chuẩn mực quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, xã hội;
(2) tạo môi trường thuận lợi để thu hút và nuôi dưỡng những tài năng KH&CN; và (3)
tạo nhân tố tốt tham gia vào việc cung cấp các định hướng KH&CN, lập kế hoạch và
đánh giá nghiên cứu và phát triển của quốc gia.
Cũng từ những kinh nghiệm học được từ các nước trong việc lựa chọn và phát
triển các nhóm nghiên cứu mạnh, kết hợp vớ
i yêu cầu thực tiễn, chúng tôi đã đề xuất

8
được phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh phù hợp với Việt Nam.
Phương pháp đánh giá chủ yếu được sử dụng là phương pháp đánh giá bằng
chuyên gia cùng ngành/đồng cấp (Peer Review) với kỹ thuật sử dụng là tổ chức hội


9
nhóm. Kết quả đánh giá kết thúc một chu trình đầu tư, trong một số trường hợp
được sử dụng để xét xem nhóm nghiên cứu có tiếp tục được tài trợ ở chu trình
tiếp theo hay không.
Từ kinh nghiệm thực tế khi thực hiện đánh giá thử một số nhóm nghiên cứu,
chúng tôi đặc biệt lưu ý Quy tắc M/5 được đề xuất khi thực hiện các đánh giá lựa
chọn và phát triển các nhóm nghiên cứ
u mạnh rất thuận tiện. Quy tắc M/5 sử dụng
cách thức đánh giá dựa trên trọng số (điểm tối đa) kết hợp với thang điểm 5 để lượng
hoá từng tiêu chí (điểm 1: kém ; điểm 2: yếu ; điểm 3: trung bình ; điểm 4: khá ; điểm
5: tốt). Quy tắc M/5 đảm bảo việc chấm điểm đánh giá rất có căn cứ
, dễ dàng cho
người đánh giá thể hiện quan điểm đánh giá của mình và góp phần đảm bảo tính công
bằng.

10
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết và bối cảnh xây dựng đề tài
Vài thế kỷ qua, xã hội loài người đã chuyển từ các nghiên cứu, khám phá đáp ứng
sự đam mê mang tính cá nhân sang các nghiên cứu liên ngành và đa ngành với các
điều kiện nghiên cứu cao cấp, các trang thiết bị hiện đại nhằm mục đích phục vụ tối đa
cho phát triển kinh tế - xã hội. Với sứ mệnh đó, khoa học và công nghệ được k
ỳ vọng
ngày càng cao về vai trò động lực cho tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Theo đánh giá chung của nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách trong và
ngoài nước thì Việt Nam là nước đang phát triển với tiềm lực khoa học và công nghệ
còn rất yếu. Vì vậy, câu hỏi thường trực đối với các nhà khoa học và quản lý hiện nay
là làm thế nào để vừa nhanh chóng xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ

đầu. Với ý chí và quyết tâm cao, trong nhiều văn b
ản của Đảng và Nhà nước đã nêu rõ
mục tiêu "Hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trình độ cao, đủ sức tổ
chức nghiên cứu và giải quyết những hoạt động khoa học và công nghệ trọng điểm
quốc gia ở trình độ quốc tế "
2
. Điều này được khẳng định một lần nữa trong chuyến
thăm và làm việc của đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh với Bộ Khoa học và
Công nghệ (ngày 27-6-2008), một trong 5 nhiệm vụ trọng tâm mà Tổng Bí Thư nhấn
mạnh ngành khoa học và công nghệ nước ta cần phải tập trung giải quyết là " quan
tâm đến chế độ đào tạo chuyên gia đầu ngành, hình thành tập thể khoa học mạ
nh "
Để có cơ sở hình thành và tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án
nhằm phát hiện và nuôi dưỡng các tập thể khoa học mạnh, Trung tâm Hỗ trợ đánh giá
khoa học và công nghệ đã phối hợp với một số đơn vị trong, ngoài Bộ tiến hành
nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, khảo sát thực trạng các nhóm nghiên cứu trong
các tổ chức nghiên cứu của Việt Nam và đề xuất phương pháp, quy trình, tiêu chí đánh
giá các nhiệm vụ nhằm phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh. Hy vọng, kết quả của đề
tài sẽ góp một phần phục vụ triển khai đề án "trọng dụng nhân tài KH&CN" mà Bộ
Khoa học và Công nghệ đang trình Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt, đồng đóng cho
việc xây dựng cơ chế chính sách đối với cán bộ KH&CN.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Đã có một số nghiên cứu đưa ra thực trạng và các kiến nghị
để nâng cao chất
lượng nghiên cứu tại Việt Nam, ví dụ nhóm các giáo sư Mỹ kết hợp với các chuyên
gia trong nước đã đề xuất Sáng kiến Khoa học Thiên niên kỷ cho Việt Nam (Vietnam
Millennium Science Initiative)
8
, trong đó, kiến nghị thiết lập mạng lưới các nhóm
nghiên cứu mạnh. Giữa năm 2007, các chuyên gia của Viện Lập kế hoạch và Đánh giá

ển năng lực của các nhà nghiên cứu, có ghi nhận đáng kể trong việc nâng cao
năng lực KH&CN, mặt khác, các nhóm nghiên cứu mạnh như là nhân tố gắn kết chặt
chẽ trường đại học - viện nghiên cứu - doanh nghiệp, từ đó sản phẩm R&D được
thương mại hoá, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, sự phát triển xã hội,
phong phú văn hoá Hơn nữa các nhóm nghiên cứu mạnh đáp ứ
ng được các tiêu
chuẩn quốc tế về trình độ nghiên cứu, về cơ sở hạ tầng và về chất lượng sản phẩm đủ
điều kiện hội nhập vào thị trường quốc tế, một số tài liệu đã tổng kết những kinh
nghiệm thực hiện việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh như thế của một số
nước
9-12
. Ví dụ, ở Hàn Quốc bắt đầu chương trình Phòng thí nghiệm nghiên cứu quốc
gia – NRL (1999 – 2006) ; ở Malaysia, năm 2001, trung tâm xuất sắc (COE) ra đời và
COE thử đầu tiên là về công nghệ sinh học ; từ năm 1997, Chương trình các Mạng
lưới Trung tâm xuất sắc - NCE (Networks of Center of Excellence) đã được triển khai

13
thực hiện rất thành công ở Canada ; Thụy Sĩ cũng đã thiết lập Chương trình các
"Trung tâm Năng lực nghiên cứu Quốc gia - NCCR (National Centres of Competence
in Research)" vào năm 2005. Các NRL, COE, NCE hay NCCR đều có bản chất là
những nhóm nghiên cứu mạnh bắt nguồn từ định hướng KH&CN ưu tiên của chính
phủ các nước. Đối với mỗi quốc gia, tùy vào bối cảnh cụ thể, mục tiêu cụ thể mà áp
dụng phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá lựa chọ
n và phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh phù hợp để hướng tới mục đích chung là mang lại nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao, cho ra những kết quả khoa học ở trình độ quốc tế và những
công nghệ thiết thực, có sức cạnh tranh cao phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế -
xã hội.
Qua tìm hiểu các nghiên cứu cũng như thực tế từ các nước, chúng tôi nhận thấy:
mặc dù có sự khác nhau v

ực KHTN, KHXH&NV và KHKT-CN. Để đạt
được mục tiêu này, chúng tôi đã tìm hiểu được thực trạng các nhóm nghiên cứu trong
các tổ chức nghiên cứu ở nước ta kết hợp với việc học tập những kinh nghiệm thành
công đối với việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh của một số nước trên thế giới.
Chúng tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp tiếp cận định tính và định lượng khi
đề xuất ph
ương pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tương hợp với quốc tế. Cụ
thể là:
(1) sử dụng phương pháp điều tra khảo sát điểm (case study) để phác thảo thực
trạng các nhóm nghiên cứu trong các tổ chức nghiên cứu của Việt Nam;
(2) sử dụng phương pháp chuyên gia trong việc đánh giá thử một số nhóm nghiên
cứ
u làm luận chứng thực tế về hiện trạng các nhóm nghiên cứu trong các tổ
chức nghiên cứu của Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi còn lấy ý kiến phản biện,
đóng góp của các chuyên gia KH&CN cho các nội dung đề xuất về phương
pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá lựa chọn và phát triển các nhóm nghiên cứu
mạnh ở Việt Nam và cho các nội dung khác liên quan được đề xuất trong đề
tài; và
(3) áp dụng phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin, dữ liệu, tài liệu trong và
ngoài nước
để đưa ra những lưu ý thành công đối với việc phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh của một số nước để áp dụng cho Việt Nam.
4. Các khái niệm
a) Nhóm nghiên cứu

15
Một khái niệm về nhóm nghiên cứu, hay nhóm nghiên cứu khoa học (Scientific
Research Group) được nhiều nhà khoa học tin dùng do Joseph S. Fruton
13

nghiên cứu nhằm tạo ra những sản ph
ẩm khoa học công nghệ mới".
- Quy mô của nhóm nghiên cứu có 5 mô hình

phổ biến sau:

16
1. Nhóm nghiên cứu nhỏ (dưới 10 người) thường xuất phát từ các ý tưởng của
các cá nhân hoặc nhu cầu hợp tác của một số cá nhân hoặc các nhóm nghiên cứu nhỏ
hơn từ các chuyên ngành khác nhau. Chức năng chính là nghiên cứu và tham gia đào
tạo. Cấu trúc quản lý đơn giản, linh động. Bản thân các thành viên cũng có các nhiệm
vụ nghiên cứu đơn ngành, riêng biệt.
2. Trung tâm nghiên cứu lớn
hình thành theo nhu cầu của cơ sở hoặc theo mô
hình các vườn ươm công nghệ, có chức năng nghiên cứu và đào tạo. Được tổ chức và
quản lý bởi một Ban lãnh đạo mà Giám đốc là người trực tiếp điều hành và chịu trách
nhiệm báo cáo cấp trên. Trung tâm có thể có nhân sự, cơ sở vật chất, địa điểm cố định
hoặc chia sẻ với các đơn vị.
3. Phòng thí nghiệm quốc gia
được nhà nước đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ, nghiên
cứu theo các nhiệm vụ được đề xuất từ dưới lên, có tính kế hoạch cao và có tổ chức
với cấu trúc chặt chẽ. Cán bộ nghiên cứu có thể linh động chuyển đổi giữa các nhóm
nghiên cứu tham gia.
4. Mô hình công nghiệp
hình thành do nhu cầu của có sở, định hướng nghiên cứu
theo sản phẩm, mang tính kế hoạch cao và không tham gia đào tạo. Cán bộ nghiên cứu
cũng có thể linh động chuyển đổi giữa các nhóm nghiên cứu tham gia.
5. Mô hình liên kết trường đại học – viện nghiên cứu – khối công nghiệp
thường
được khởi tạo với các dự án đầu tư nghiên cứu lớn, có thể có hội đồng tư vấn, thực

- Theo định nghĩa của Phần Lan
16
“Trung tâm xuất sắc là các đơn vị nghiên cứu
và đào tạo cán bộ nghiên cứu chất lượng cao, có tiềm năng trở thành tổ chức dẫn đầu
thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu của mình. Nó có thể là một hoặc một số nhóm
nghiên cứu ở trình độ quốc tế cao và có chung mục đích. Những đơn vị và các cán bộ
nghiên cứu hàng đầu có thể cùng nhau làm việc trong cùng đề tài hoặc vấn đề
nghiên
cứu, và thực hiện dưới sự chỉ đạo của một tổ chức, được gọi là trung tâm xuất sắc hỗn
hợp”.
- Theo định nghĩa của Liên minh châu Âu
17
“Trung tâm xuất sắc là một đơn vị
mà ở đó nghiên cứu và phát triển công nghệ được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế,
sản phẩm khoa học và/hoặc đổi mới công nghệ (bao gồm cả đào tạo) phải đo lường
được”. Sự xuất sắc được đo lường qua các chỉ số: Các công bố khoa học; Các sáng
chế; Các chức vụ được đề bạt sau tiế
n sỹ; Số lượng cán bộ nghiên cứu và các nhà khoa
học; Số lượng và quy mô của các hợp đồng thương mại; Số lượng các công ty khởi
nghiệp (spin-off); Sự tham gia vào Hệ thống đào tạo của các nước trong Liên minh
Châu Âu
- Theo định nghĩa của Quỹ Nghiên cứu quốc gia Nam Phi
18, 19
“Trung tâm xuất
sắc là những trung tâm nghiên cứu hữu hình (nhóm, khoa, trường, viện) hoặc vô hình

18
(các mạng lưới), nơi tập trung nguồn lực và khả năng hiện có để giúp các cán bộ
nghiên cứu hợp tác với nhau thông qua các dự án dài hạn phù hợp với địa phương và
có khả năng cạnh tranh quốc tế để thúc đẩy sự theo đuổi và phát triển năng lực

ít nhất là 5 năm.
5 Kết quả hoạt động được cộng đồng
KH&CN trong nước
công nhận
tạo ra các sản phẩm KH &
CN quan trọng, đột phá và
đạt trình độ quốc tế

19
Nhiều nước khác
20
cũng có những triết lý rất cụ thể về các nhóm nghiên cứu
mạnh/ trung tâm xuất sắc. Mặc dù được định nghĩa khác nhau, nhưng các nhóm
nghiên cứu mạnh/trung tâm xuất sắc đều có nhiệm vụ sau:
(1) Nghiên cứu: Nhiệm vụ chính của nhóm nghiên cứu mạnh/trung tâm xuất
sắc là nghiên cứu. Các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu tập trung vào việc tạo ra và
phát triển các tri thức và công nghệ mới.
(2) Giáo dục và đ
ào tạo: Phát triển nguồn nhân lực được thực hiện qua các
chương trình đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ, hỗ trợ sau tiến sỹ, các chương trình thực tập,
hỗ trợ sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài, hợp tác đào tạo sinh viên.
(3) Trung chuyển thông tin: Nhóm nghiên cứu mạnh/Trung tâm xuất sắc là nơi
cung cấp các nguồn tri thức từ các kho tri thức phát triển trình độ cao, duy trì các cơ sở
dữ
liệu, hỗ trợ việc chia sẻ và chuyển giao tri thức.
(4) Kết nối: Nhóm nghiên cứu mạnh/Trung tâm xuất sắc được kỳ vọng là sẽ hợp
tác tích cực với các cá nhân, nhóm và các tổ chức có danh tiếng.
(5) Dịch vụ: Nhóm nghiên cứu mạnh/Trung tâm xuất sắc cung cấp thông tin,
các phân tích chính sách và các dịch vụ khác, bao gồm cả các tư vấn tin cậy cho chính
phủ, doanh nghiệp và xã hội dân sự.

1. Sự phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới
Trong kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, khi lợi thế về nguồn tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân lực rẻ không còn là thế mạnh, điều kiện tiên quyết để có thể cạnh
tranh về kinh tế cũng như phát triển bền vững đối với mỗi quốc gia là phải xây dựng
được tiềm lực mạnh về nghiên cứu khoa học và đổi mớ
i công nghệ. Thông qua việc
tiến hành nghiên cứu theo những lĩnh vực mũi nhọn để tạo ra các kết quả đổi mới, các
tổ chức nghiên cứu trở thành nhân tố quan trọng trong việc phát triển tiềm lực khoa
học và công nghệ của mỗi nước. Chất lượng nghiên cứu trong các trường đại học, viện
nghiên cứu chính là chìa khóa để nâng vị thế của quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Các nướ
c tiên tiến và cả những nước đang phát triển đều xác định rõ sự cần thiết
phải hình thành các trung tâm xuất sắc, nhóm nghiên cứu mạnh hay dưới một tên gọi
nào đó như là những sáng kiến xuất sắc trong khoa học và công nghệ để nâng cao chất
lượng nghiên cứu trong các viện nghiên cứu, trường đại học. Xây dựng chính sách để
phát triển môi trường nghiên cứu sáng tạo cho các trung tâm xuất sắc là một trong
những ưu tiên khi xây dự
ng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của nhiều
quốc gia
9, 15-19
.
Đối với nhiều nước thuộc Châu Âu, việc đầu tư thực hiện các sáng kiến xuất sắc
diễn ra khá sớm. Từ những năm đầu thập niên 1990, Đan Mạch, Phần Lan và Áo đã
thiết lập các chương trình nghiên cứu đặc biệt để nuôi dưỡng và phát triển các trung
tâm xuất sắc trong các tổ chức nghiên cứu với mức đầu tư vượt trội. Từ năm 1996,
Anh đầu tư cho các nghiên c
ứu xuất sắc kết hợp với việc chú trọng nâng cao chất
lượng đào tạo, do đó các trường đại học là đối tượng ưu tiên. Sau một thời gian dài
nghiên cứu và chuẩn bị, năm 2006, Chính phủ CHLB Đức đã chính thức tài trợ cho
“Chương trình sáng kiến xuất sắc” với việc hỗ trợ các nhà khoa học trẻ trong các trung

Ở Châu Phi, theo sáng kiến của những người đứng đầu thuộc 5 quốc gia (Angiêri,
Ai cập, Nigiêria, Sênêgan, Nam Phi), gần đây, chương trình khung về phát triển kinh
tế-xã hội tổng thể cho châu Phi đã được hình thành với tên gọi là “Đối tác mới cho
phát triển ở châu Phi – The New Partnship for Africa’s Development”, viết tắ
t là
NEPAD. Nhận thức được tầm quan trọng của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ trong việc xây dựng năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho
quốc gia, NEPAD đã mong muốn xây dựng mạng lưới các trung tâm xuất sắc để lôi
kéo các nguồn lực khoa học và kỹ thuật của các nước châu Phi hướng vào các thách

23
thức chung về R&D trong vùng cũng như các lĩnh vực ưu tiên có liên quan. Trên cơ sở
nghiên cứu kinh nghiệm về việc xây dựng các trung tâm xuất sắc từ các nước thuộc
khối OECD và các nước thuộc Liên minh châu Âu, bên cạnh việc xây dựng chương
trình hỗ trợ để cấu trúc lại các tổ chức giáo dục đại học cho các quốc gia ở châu Phi,
NEPAD đã phát triển các trung tâm xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và công nghệ,
bao gồm các viện công nghệ
của châu Phi.
Bảng tổng hợp các sáng kiến “xuất sắc” trên thế giới

Quốc gia Số lượng các tổ chức mục tiêu
và tiêu chí thích hợp
Nguồn lực được
phân bổ
Chu trình đầu tư
Chương trình Sáng
kiến xuất sắc của
Đức, năm 2006
40 trường đào tạo sau đại học,
30 nhóm xuất sắc thuộc các

2) Các Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học và Kỹ thuật y học
(MRC): 18 Trung tâm
3) Trung tâm Nghiên cứu cơ
bản Quốc gia (NCRC): 6
Trung tâm được tài trợ năm
2006
1) 64,2 triệu
USD/năm 2) 7 triệu USD/năm 3)10,8 triệu
USD/năm 1) 9 năm
2) 9 năm
3) 7 năm

Cả 3 Chương
trình đều bắt đầu
khởi động vào
năm 2002 hoặc
năm 2003

24
Chương trình Top

TBD - được xác định từ cơ cấu
của các đề cương nghiên cứu
(REPs)
Dựa vào số các đề
cương nghiên cứu có
cấu trúc như 1 “trung
tâm xuất sắc”
Kinh phí cả Chương
trình FP7 là 50,5 tỷ
EUR cho giai đoạn
2007-2013
Bắt đầu năm 2007
Từ 2007-2013
Đề án 211 của
Trung Quốc
100 Tổ chức giáo dục đại học
và sau đại học
18 Tỷ USD trong 7
năm
(400 triệu USD tài trợ
cho các khoa/phòng
nghiên cứu ở trình độ
quốc tế)
Bắt đầu năm 1996
Đề án 985 ở Trung
Quốc
34 tổ chức nghiên cứu trong
trường đại học
28,3 Tỷ Nhân dân Tệ 1999-2001
Phòng Thí nghiệm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status